Bên Hồ Kim
Minh
Ngô Thanh Gặp Ái Ái
Dưới
đèn Lưu Sảnh gặp Chu Văn
Sư Hậu Yên Sơn ngộ cố nhân.
Sống chết tách rời luôn thế mãi,
Thâm tình cần nhất chốn nhân gian.
Năm Trung Hòa thời Đại Đường, ở Bắc Lăng
có một người tài tử, họ Thôi tên Hộ, rất
mực phong lưu tuấn nhã, tài mạo vô song. Bỗng
gặp lúc triều đình mở khoa thi, Thôi Hộ thu
xếp đàn
kiếm hòm sách, đi đến Trường An dự thi. Lúc đó
đã cuối xuân, Thôi Hộ tạm rời chỗ
trọ, đến khu vực Nam Giao ngoài thành du ngoạn.
Bỗng cảm thấy miệng khát họng khô, môi
bỏng mũi nóng. Thôi sinh miệng khát, chẳng có
suối đầm để uống. Chỉ thấy có một
chỗ: hoa đào rực rỡ như
lửa, thùy liễu biếc xanh như khói, hàng rào trúc, nhà
tranh, tường đất vàng, cửa sổ trắng,
tiếng chó gâu gâu trong đào nguyên, tiếng vàng anh
lýu lo trong liễu biếc. Thôi Hộ đến gõ
cửa, tìm một ngụm nước uống. Đứng
hồi lâu, không thấy ai ra. Đang lúc không biết làm
thế nào, bỗng nghe thấy trong nhà có tiếng
cười. Thôi sinh vội tiến đến nhìn qua khe
cửa: tiếng cười đó nguyên là của một cô gái,
khoảng mười sáu tuổi. Người con gái đó ra mở
cửa. Thôi sinh nhìn thấy, miệng rất rát,
họng thấy khô, môi thấy bỏng, mũi thấy
nóng. Vội vàng vòng tay tiến lên thi lễ, nói:
"Xin bái chào tiểu nương tử". Người con gái
cất giọng thánh thót du dương đáp lễ chúc lời
vạn phúc, nói: "Quan nhân chiếu cố đến nhà
tranh, có gì dạy bảo?". Thôi
sinh nói: "Tiểu nhân là Thôi Hộ ở Bác Lăng,
chẳng có việc gì khác, chỉ vì đường xa
miệng khát, đến xin một thìa nước để
uống rồi đi". Cô gái nghe xong, không nói gì.
Vội vàng đi vào trong, dùng bàn tay ngọc, lấy âu sứ,
rót ra nửa âu trà, đưa cho Thôi sinh. Thôi sinh nhận lấy,
đưa lên miệng, thật là mát thấu ruột gan, cảm
ơn rồi ra đi. Vì muốn mưu cầu công danh, nên
phải đi thi. nào ngờ vận may chưa
đến, bảng vàng không thấy tên, liền rời
Trường An, vội vội vàng vàng trở về quê nhà.
Thoắt đã một năm. lại
đến khoa thi. Thôi sinh lại lên đường đi dự thi.
Nhớ tới cố nhân, tạm xếp việc thi
cử sang một bên, vội đi đến phía nam đô thành, trên đường
đi ngó đông ngó tây, chỉ sợ không nhận ra chỗ ở
của cô gái năm ngoái. Chẳng mấy chốc đã
đến trước cửa nhà tranh, vẫn đào thắm liễu xanh,
chó sủa oanh kêu. Thôi Hộ đi đến trước cửa,
thấy vắng vẻ không người, trong lòng nghi
hoặc. Đi đến khe cửa nhìn vào, cũng chẳng
thấy bóng dáng một ai. Bồi hồi một lúc, đi
đến bên cửa sổ gỗ trắng, viết một
bài thơ bốn câu:
Ngày này, năm ngoái, cửa
đây,
Hoa đào, mặt ngọc, hây
hây ánh hồng.
Mặt ngọc đâu, để vắng không?
Hoa đào bỡn cợt gió đông
vẫn cười.
Để rồi, đi về. Ngày hôm sau, thấy lòng không
yên, lại đến xem sao. Bỗng thấy kẹt một
tiếng, cửa mở, một người bước ra.
Thấy: Râu mày như cước, tóc lưa thưa. Thân mặc đạo
bào trắng, tay cầm cây gậy trúc vân hoa: Tựa như
khách bốn biển ngao du, giống như người ngồi
trên bàn đá, một mình bên suối buông câu.
Ông lão nói với Thôi sinh:
"Quân có phải là Thôi Hộ?".
Thôi sinh nói: "Xin bái chào trượng nhân, chính là kẻ
thấp hèn này. Không rõ làm sao trượng nhân biết
được?". Ông lão nói: "Quân
đã giết con gái ta, làm sao không biết?".
Thôi Hộ nghe nói sợ hãi tái mặt, nói: "Kẻ
thấp hèn chưa từng vào trong nhà lão trượng, sao
lại nói vậy?". Lão
trượng nói: "Con gái ta năm ngoái chỉ có một
mình ở nhà, gặp quân đến xin nước uống.
Quân đi rồi, mê man như say, không rời giường chiếu.
Hôm qua bỗng nói: "Ngày này năm ngoái đã gặp Thôi
lang, ngày hôm nay chắc sẽ lại đến". Đi ra
trước cửa, đứng đợi một ngày, không thấy.
Quay mình ngẩng đầu, bỗng thấy bài thơ trên
cánh cửa gỗ trắng, khóc to một tiếng,
ngã lăn ra đất. Lão đỡ vào trong phòng,
suốt đêm không tỉnh. Buổi sớm, bỗng mở
mắt nói: "Thôi lang đến rồi, cha hãy ra nghênh
tiếp". Hôm nay, quả nhiên quân đến, chàng phải
liệu định sao. Giờ xin mời vào trong nhà xem".
Ai ngờ khi Thôi sinh bước vào trong cửa, bên trong
bỗng có tiếng khóc. Khi nhìn kỹ, nàng đã
chết rồi. Lão trượng nói: "Lần này chàng
phải đền mạng!". Thôi sinh
lúc đó vừa sợ vừa đau đớn. Liền đi đến
bên giường, ngồi duỗi chân bên cô gái, nâng đầu nàng,
đặt trên đùi, thơm vào mặt nàng mà
nói: "Tiểu nương tử, Thôi Hộ đây". Khoảnh
khắc, cô gái ba hồn lại tụ, bảy vía lại
trùng sinh, chỉ trong một giây phút, đã đi lại được.
Lão trượng mưòi phần hoan hỉ. Liền đem
hộp đồ trang sức ra, nhận Thôi Hộ làm rể.
Về sau Thôi Hộ phát tích làm quan, vợ chồng một
đời đoàn viên. Thực là:
Trăng khuyết lại
tròn,
Gương vỡ lại lành,
Hoa rụng lại nở,
Người chết hồi sinh.
Tại sao ngày nay nói đến đoạn này? Đây là truyện
từ cái chết sống lại. Nay nói về một cô
gái đa tình, không may gặp một thiếu niên phong lưu,
không thể kết hôn, mất đi tính mệnh, biến thành
một người khác động phòng hoa chúc. Thực là:
Có duyên nghìn
dặm gặp nhau,
Không duyên đối mặt mà sao cách vời!
Cô
gái này gặp người nào vậy? Nguyên ở phủ Khai
Phong, Đông Kinh triều Tống, có một viên ngoại,
họ Ngô tên Tử Tư. Bình sinh là một người chân
thực, chỉ sinh được một người con trai, tên
gọi Ngô Thanh. Đúng là con một, rất được yêu
quý nuông chiều. Vị viên ngoại này yêu quý
con trai đến mức một ngày cũng không cho ra khỏi
cửa. Người con trai này lại là một kẻ phong lưu
phóng túng, chỉ thích kết giao bằng hữu, kiếm
liễu tìm hoa. Bỗng một hôm, có hai người
bạn đến thăm, thuộc dòng dõi lá ngọc
cành vàng, con rồng cháu phượng, là con tôn thất Tiết
độ sứ Triệu Bát, anh em hai người, anh tên là
Ứng Chi, em là Mậu Chi, đều là những kẻ ném
tiền qua cửa sổ. Hai anh em nhờ người trong
viện thông báo. Ngô tiểu viên ngoại mời trà xong,
hỏi: "May được ân giáng, không biết sẽ
phải thực hiện lệnh gì đây?".
Hai người nói: "Nay là tiết Thanh Minh, ở chỗ
hồ Kim Minh, trai gái tấp nập, người đi chơi đông như
kiến. Muốn cùng túc hạ đi du ngoạn, tôn ý
thế nào?". Tiểu viên ngoại
rất mừng, nói: "Ơ hai huynh không chê hàn tiện, xin
được cùng đi". Tiểu viên ngoại liền gọi
tiểu đồng gánh rượu và các thức nhắm,
chuẩn bị ba con ngựa, cùng hai người đến
hồ Kim Minh. Đào Cốc học sĩ có thư đề:
Vạn chỗ sênh ca
tỉnh nối say,
Quanh hồ rèm lụa khói lam quây.
Cửu trùng cung điện che mây biếc,
Nhật chiếu càn khôn ngũ sắc vây.
Mặt sóng cầu vươn đường thượng giới,
Bên bờ du khách ngắm mê say.
Thuyền rồng ngự giá vua ban yến,
Vạn tuế gió thuyền tiếng hô bay.
Ba
người du ngoạn quanh hồ, chỉ thấy:
Như gấm đào hồng, như khói
liễu xanh. Từng đôi bướm phấn bay giữa hoa,
từng cặp hoàng anh nhảy trên cành. Giẫm cỏ gái
trai lũ lượt đến, thưởng ngoạn du nhân đoàn
lại đoàn.
Ba người kiếm một chỗ
trống, ngồi uống rượu một hồi. Ngô
tiểu viên ngoại nói: "Hôm nay trời rất
đẹp, chỉ tiếc thiếu một người mời
rượu". Hai anh em họ Triệu nói: "Rượu
uống đã đủ rồi, ngồi mãi một
chỗ không bằng đi dạo chơi tiêu khiển, xem trai gái
du xuân". Ba người dắt tay nhau cùng đi. Vừa
được mấy bước, bỗng một làn gió thơm
thoảng qua, giống như xạ hương, lại có mùi son
phấn. Ngô tiểu vương ngoại tiến lên đón làn gió thơm
đó. Chợt thấy một tốp phụ nữ, như trăm
hoa đua sắc, vạn cỏ khoe tươi. Ở giữa có
một vị nương tử, chừng mười lăm, mười sáu
tuổi, mình mặc áo hạnh hoàng, người trông:
Mắt như nước mùa thu, mày tựa núi mùa xuân, tóc như mây
cuộn, chân tựa nhụy sen, hai quả anh đào phân môi thắm,
một nhành liễu dương đấu lưng ong. Chưa biết mùi
hương của tấm thân ấm áp, đã thấy rõ là
một giai nhân phong nhã mười phần.
Ngô tiểu viên ngoại trông
thấy chỉ lăm le muốn giáp mặt. Nhưng bị anh em
họ Triệu kéo lại, nói: "Con gái nhà lành, không
được đùa cợt. Sợ
rằng ở đây tai mắt rất nhiều, sẽ
dẫn đến tai họa". Tiểu viên ngoại tuy nghe
theo, nhưng chẳng khác gì một kẻ hồn vía
đã ra đi. Vị tiểu nương tử đó theo đám phụ
nữ đi mất. Tiểu viên ngoại và hai anh em họ
Triệu chào biệt nhau rồi về. Tiểu viên
ngoại về nhà suốt đêm không ngủ, nói:
"Thực là một cô gái mười phần xinh đẹp.
Chỉ tiếc một điều là không hỏi rõ
họ tên và chỗ ở. Nếu biết được, nhờ
người làm mối đến cầu thân, chắc cũng có
thể được ba phần may mắn". Ngày hôm sau,
lòng dạ không yên, mặc quần áo đẹp, lại
hẹn hai anh em họ Triệu, đến hồ Kim Minh
để tìm tung tích người đẹp đã gặp ngày
hôm qua.
Rõ ràng đường
chốn Dương Đài,
Mà sao không gặp được người làm mưa.
Ngô tiểu vương ngoại đi trong đám du nhân, tìm đi
tìm lại, không thấy vị tiểu nương tử
đã gặp ngày hôm qua, trong lòng buồn phiền
không vui. Triệu đại ca nói: "Túc hạ trong lòng
không vui, muốn tìm hứng xuân mà chiêu đạt. Lúc này
trong các quán rượu, thường có thiếu phụ bán
rượu. Hai anh em ngu đệ xin dẫn túc hạ đến đó,
nếu thấy vui mắt, sẽ mua ba chén, cũng coi như
hưởng một trận gió xuân, thế nào?".
Tiểu viên ngoại nói: "Bọn kỹ nữ này, hoa
tàn liễu gẫy, người có học thường ngày không
để ý". Triệu nhị ca nói: "Nhà số năm
phố bắc, có một quán rượu nhỏ, rất chi
tinh nhã. Ở đó có một cô gái đong rượu, rất có
nhan sắc, tuổi chừng đôi tám, chỉ có điều là
thường không xuất hiện". Tiểu viên ngoại
bỗng nhiên nói: "Phiền dẫn đến xem". Ba
người đi đến phố bắc, quả nhiên thấy
một quán rượu nhỏ, bên ngoài hoa trúc tốt tươi
đều đặn, bên trong chén đĩa bày la liệt. Triệu
nhị ca chỉ tay nói: "Nhà đó đây rồi". Ba
người đi vào trong cửa, im lặng không một tiếng
người. Liền gọi một tiếng: "Có ai không?
Có ai không?". Trong giây lát, như có như
không, cảm thấy có một cô gái tuổi chừng
mười lăm, mười sáu yêu kiều xinh đẹp như hoa, đi ra.
Vừa thấy cô gái, ba chàng trai đã cùng cúi đầu
vòng, nói: "Xin bái lễ tiểu nương tử". Cô
gái đa tình thấy ba người, lòng xuân bỗng
dậy, không kìm giữ nổi, chân đã bước
ra, trở vào không được. Nàng bèn ngồi xuống bên
cạnh ba người, rồi gọi Nghênh Nhi mang rượu
đến. Cả bốn người đã biết mừng vui
là thế nào! Bốn miệng cùng cất tiếng, ai
cũng nói về chuyện chọn bạn trăm năm. Vừa
uống cạn chén rượu, bỗng nghe tiếng la hí,
tiếng bánh xe lọc cọc, hóa ra là cha mẹ cô gái đi
viếng mộ đã trở về. Ba người mất
hứng đành vội chia tay.
Sắc xuân nhanh chóng phai tàn, không còn
đi chơi cảnh đẹp được nữa, trong lòng
nhớ nhung, mộng thấy mỹ nhân. Chớp mắt,
lại một năm trôi qua. Ba chàng trai không hẹn mà gặp,
lại tìm đến nơi cũ. Thoáng chốc đã đi
đến cái nơi định đến. Nhưng chỉ thấy cửa
nhà vắng vẻ, không biết người đong rượu ở
nơi đâu. Ba người nghỉ ngơi một chút, rồi đi
hỏi tin tức, thấy ông lão và bà lão năm ngoái
đi ra, ba người nói: "Xin bái lễ hai cụ. Có rượu
xin cho một bình". Rồi lại hỏi:
"Trượng nhân, năm ngoái đến đây, thấy có một
tiểu nương tử đong rượu; hôm nay sao không thấy?". Ông lão nghe hỏi, rơi hai hàng
lệ, nói: "Bẩm quan nhân, già này họ Lư tên Vinh. Cô
gái đong rượu năm ngoái mà quan nhân trông thấy chính là con gái
già này, tiểu danh là Ái Ái. Ngày này năm ngoái cả nhà tôi đi
viếng mộ, không biết có ba đứa chết tiệt
từ đâu đến, cùng nó uống rượu, thấy tôi
về liền bỏ đi. Giữa hai bên đã xảy ra
những gì, không được biết. Hai vợ chồng
già chúng tôi có trách mắng nó mấy câu, ai ngờ tính nó quá
tự trọng, thoắt buồn thoắt vui, không ăn không uống, mấy ngày sau thì chết.
Cái gò nhỏ ở sau nhà, chính là mộ của nó
đó". Nói rồi, nước mắt lã chã tuôn rơi.
Ba người không dám hé miệng hỏi thêm, vội vã
trả tiền rượu, lên ngựa ra về, suốt
dọc đường đi, thấy lòng thương cảm. Quay
đầu nhìn lại, lệ rơi ướt áo, không thể
nguôi lòng. Thực là:
Đêm khuya tiếng ồn
tạm lắng,
Đài hồ trăng sáng lung linh.
Đọng ngưng cảnh trời thanh vắng,
Ban ngày có sự hoàn sinh.
Trong lúc ba người đang đi,
bỗng thấy một phu nhân, lụa trắng trùm
đầu, lắc la lắc lư, nửa tiến nửa lui. Phu
nhân nhìn ba người, khe khẽ chúc lời
vạn phúc. Ba người như say như mê, không biết nên làm
thế nào. Nếu nói phu nhân đó là ma, sao quần áo có
đường khâu, thân hình có bóng trên mặt đất;
nếu nói là mộng, sao véo thịt thấy đau. Chỉ
thấy phu nhân đó nói: "Các quan nhân hẳn nhận ra nô
gia, người năm ngoái đã gặp bên hồ Kim Minh. Hôm nay
các quan nhân đến gặp nô gia, cha mẹ nói dối
rằng nô gia đã chết, đắp một cái mộ
giả, cốt để đánh lừa các quan nhân. Nô gia nghĩ
rằng kiếp trước có duyên, may mà tương ngộ. Nay nô
gia đã dọn đến một cái lầu nhỏ ở
trong một ngỏ hẹp trong nội thành, vẫn rót
rượu trong. Nếu không chê bỏ, cố xin mời
hạ cố". Ba người liền xuống ngựa
cùng đi bộ. Chẳng mấy chốc đã đến nơi
cần đến. Đi vào trong cửa, chỉ thấy: Lầu
nhỏ liền vườn, sau trướng ẩn xuân. Mái hiên
thấp đẹp mắc rèm hồng, gác uốn xa xa rủ
trướng gấm. Nửa sáng nửa tối, người
ở chỗ khuất ánh sáng soi; trăm tía ngàn hồng, xuân
tràn cảnh vật nơi nơi.
Lên tới trên lầu, cô gái
gọi: "Nghênh Nhi, mau bày rượu, để chúc mừng ba
vị thư sinh". Thời gian như ngừng trôi, rượu
uống thích khẩu. Cô gái khéo léo chuốc rượu. Hát
một bài hát du dương, nhảy một điệu múa yêu
kiều, gảy một khúc đàn
thánh thót, nói những lời êm dịu ngọt ngào. Hai anh
em họ Triệu uống xong, chào biệt ra về. Ngô
tiểu viên ngoại quay mình vươn tay, bá đôi vai thơm, ôm
tấm lưng ong, coi lầu là giường, nổi trận mây
mưa. Ngủ đến khi trời sáng, trở dậy rửa
mặt chải đầu, hai người quấn quýt,
chẳng chịu rời nhau. Ngô tiểu viên ngoại
đốt hương thề nguyện, cắn tay thề ước. Cô
gái che mặt, tủm tỉm bước vào nhà trong. Ngô
tiểu viên ngoại về nhà, trong lòng buồn bã.
Cha mẹ thấy Ngô Thanh về, hỏi: "Con trai, đêm
qua nghỉ ở chỗ nào? Làm cho cha mẹ suốt đêm
không ngủ, mộng mị lung tung". Tiểu viên
ngoại nói: "Thưa cha mẹ, có hai vị hoàng thân
quốc thích muốn con ở lại, con đành phải nghe theo".
Cha mẹ nghe nói là các vị hoàng thân, lại đã
từng đến nhà chơi, không ai nghi ngờ gì. Ai
ngờ mối tình đã vướng, không thể
gỡ ra. Có thơ làm chứng như sau:
Gai gốc rẫy
bằng, lầu dựng xây,
Trên lầu đàn hát,
đỉnh vui say.
Tiếng cười chưa dứt đã ly biệt,
Gai gốc xưa kia lại mọc đầy.
Tiểu viên ngoại và cô gái, tình cực sâu đậm,
không sao tả xiết. Thực là:
Giai nhân yểu điệu
đang xuân sắc,
Tài tử phong lưu lúc thiếu niên.
Tiểu viên ngoại tình ý vương vấn, không quá
hai ngày, lại đến qua đêm cùng cô gái. Chỉ có một
điều là, mỗi khi gặp cô gái thì tự thấy
tinh thần phấn chấn gấp trăm lần, dung
mạo hơn hẳn lúc bình thường; nhưng khi về
đến nhà thì sắc mặt tiều tụy, thân
thể khô cằn, dần dần giống như ma quỷ
trông không còn ra dáng con người. Chẳng thiết ăn uống, chẳng cần thuốc thang.
Cha mẹ thấy con trai như vậy, phụ tử
tình thâm, chẳng cần quan tâm đến tình
bằng hữu, cũng chẳng quản là hoàng thân hay
quốc thích, mời hai anh em công tử họ Triệu
đến, nói rằng: "Không biết hai huynh những ngày
trước đây đã đem con tôi đi làm những điều gì
không phải? Đến nỗi nay nó bị bệnh nặng.
Nếu chữa trị được, một lời cũng
không dám nói; vạn nhất có điều gì không lường
trước được, thì không thể không đi đánh trống
kêu oan, lúc đó xin đừng trách già này là không phải". Hai
anh em họ Triệu nghe xong, thì thầm bàn với
nhau: "Chúng ta tuy là cành vàng lá ngọc, nhưng quốc pháp
rất nghiêm: nếu ta ngay thẳng như mọi người
bình thường thì chẳng sao; nếu có điều
gì sai phạm, tội không phải nhỏ. Vạn
nhất bị ông lão cáo giác, thì chúng ta đều
không có lợi". Vội vã trả lời: "Thưa
cụ, bệnh của hiền đệ, vốn không
phải do lỗi của anh em chúng tôi". Rồi đem
chuyện gặp người con gái đa tình đẹp như hoa
ở quán rượu gần hồ Kim Minh, từ đầu chí
cuối thuật lại một lượt. Ông lão
cả kinh, nói: "Nói như vậy, con tôi bị ma ám
rồi! Hai vị có kế hay gì xin hãy chỉ
bảo". Hai người nói: "Có Hoàng Phủ Chân Nhân, ông
ấy có kiếm trảm yêu, hãy mời ông ấy
đến trổ tài pháp thuật, đuổi con ma này đi, mới
lành bệnh được". Ông lão bái tạ, nói:
"Trăm sự đều nhờ hai vị". Hai người
liền đi ngay.
Họ đến một ngọn núi
xa, tới một nơi sâu kín, có mây trắng bay ra, trông
thấy một cái am tranh: Nóc lợp tranh vàng, tường xây
đá trắng. Rừng tùng xanh tốt đêm hạc bay về, ao
nhỏ trời soi rùa ra phơi nắng. Ngô đồng liễu
rủ bóng bên đường, vượn xanh hạc trắng,
trước cửa chờ trông.
Trong giây lát, có tiểu đồng
từ trong am đi ra, nói: "Có phải hai vị đến
tìm sư phụ đi cứu người không?".
Hai người nói: "Chính phải, nhờ tiểu đồng
vào báo giúp". Tiểu đồng nói: "Nếu là bệnh
khác, sư phụ tôi không đi đâu, người chỉ chuyên trừ
con yêu tinh tình dục. Tại sao vậy nào? Tình
có thể sinh ra người, cũng có thể là chết
người. Sinh người là cái tâm của đạo gia, chết
người là điều kỵ của
đạo gia". Hai người nói: "Chính là trừ con yêu
tinh tình dục, cứu người khỏi
chết". Tiểu đồng vội quay vào, mời Hoàng
Phủ Chân Nhân ra. Chân Nhân nghe tiểu đồng nói bèn
bảo: "Ta phải đi một chuyến". Rồi
cùng theo đường quanh co đi đến nhà Ngô viên ngoại.
Vừa đến trước cửa đã nói: "Tà khí quá
nặng, chín phần chết một phần sống,
chỉ có một con đường có thể cứu
mệnh". Hai vợ chồng Ngô viên ngoại nghe nói
sợ hãi vội quỳ xuống nói với Chân Nhân:
"Xin ra oai pháp thuật, cứu tính mệnh cho nhà chúng
tôi". Chân Nhân nói: "Viên ngoại hãy làm theo
lời tôi, mau đến một nơi ở phía tây cách đây ba trăm
dặm để lánh nạn. Nếu đến nơi đó, con ma này
chắc chắn cũng sẽ đến theo. Nếu trong
vòng một trăm hai mươi ngày, con ma này không đến,
thì không thể cứu được". Viên ngoại tuân
theo. Dọn bữa cơm chay, mời Hoàng Phủ Chân Nhân ăn.
Chân Nhân ăn rồi chào từ biệt mà đi. Lão viên ngoại
vội thu xếp hành lý cho tiểu viên ngoại đi
đến Tây Kinh phủ Hà Nam tránh nạn.
Tiểu viên ngoại mời hai
vị công tử họ Triệu cùng đi. Trên đường đi, do
phải leo núi vượt khe, lội suối qua cầu, nên
lúc có bạn lúc không có ai bên cạnh, nhưng mỗi khi
tiểu viên ngoại ăn cơm thì cô gái
ở bên cạnh đưa các món ăn. Khi tiểu viên ngoại đi
ngủ thì cô gái ở bên cạnh cởi quần áo;
nếu tiểu viên ngoại đi nhà xí thì cô gái cầm
quần áo. Ở đâu cũng không tránh được, lúc nào
cũng không chịu xa rời. Thoáng cái đã ở
Lạc Dương được mấy ngày. Rồi một hôm,
chợt nhớ ra đã được một trăm hai mươi ngày.
Làm thế nào cho tốt đây? Hai vị công tử và
những người đi bảo vệ tiểu viên ngoại,
đưa nhau đến tửu lâu giải buồn, vừa lo
sợ, ai nấy đều nước mắt lưng tròng.
Sợ tiểu viên ngoại trông thấy, vội vàng lau đi.
Tiểu viên ngoại đờ đẫn, không biết làm
thế nào. Đang lúc cúi đầu dựa lan can, thì vừa
khéo, Hoàng Phủ Chân Nhân cưỡi la đến. Tiểu công
tử trông thấy, vội vàng chạy xuống lầu,
bái lạy giữa phố, rồi níu lấy Chân Nhân,
cầu xin cứu độ. Ngô Thanh và những người cùng
đi đều đến quỳ lạy cầu cứu. Chân Nhân
liền lên tửu lâu, lập pháp đàn, đốt hương, chân
bước tay múa, mồm miệng chú lầm rầm. Làm
lễ xong, lấy một thanh bảo kiếm đưa cho
tiểu viên ngoại, nói: "Tính ra, viên ngoại hôm nay
phải chết. Hãy cầm lấy thanh kiếm này,
cho đến tối phải đóng chặt cửa. Lúc hoàng hôn
sẽ có người đến gõ cửa. Không cần
hỏi xem là ai, cứ cầm thanh kiếm này chém ngay
lập tức. Nếu may ra, chém được con ma đó, viên
ngoại sẽ sống; nếu không may chém phải
người khác, viên ngoại đành phải đền
mạng. Đằng nào cũng chết, làm sao mà thoát
được". Dặn dò xong, Chân Nhân cưỡi la ra đi.
Tiểu viên ngoại nhận kiếm, đóng chặt cửa,
đợi trời tối. Hoàng hông dần đến, bỗng
nghe thấy tiếng gõ cửa lộc cộc.
Tiểu viên ngoại không lên tiếng, bất chợt
mở cửa ra, vung kiếm chém liền, cảm thấy
có người theo đường kiếm bay ngã xuống.
Tiểu viên ngoại vừa sợ, vừa mừng, tim
đập thình thịch. Gọi liên tiếp: "Mau
thắp đèn lên". Mọi
người dốt đèn lên soi, cả chủ
quán cũng đến.
Chủ quán nhận ra người
bị chém, đó là tên hầu nhỏ A Thọ, mới
mười lăm tuổi. Vì có việc phải ra phố,
bị nhốt ở bên ngoài, nên phải gõ cửa,
vừa lúc đó thì bị kiếm chém chết. Lúc đó,
trong quán ồn ào náo động, người có trách nhiệm
ở địa phương đến, thấy có án
mạng, liền trói ngay tiểu viên ngoại lại. Hai
vị công tử họ Triệu cũng bị trói.
Đợi đến sáng hôm sau, sẽ đưa đến phủ Hà Nam. Quan
Đại doãn nghe có vụ giết người, đọc
tờ trình, giao cho Ngục tư xét hỏi. Ngô Thanh đem
việc Hoàng Phủ Chân Nhân dặn chém yêu quái, kể ra
một lượt. Ngục tư nói: "Đây là lời nói hoang
đường. Nay đã chém chết tên hầu nhỏ, rõ
ràng là mạng người, làm sao chối được!". Liền thét thủ hạ dùng
hình. Nhưng những người đi theo tiểu viên
ngoại đã đút lót tiền bạc đầy đủ
cả rồi. Cho nên ngục tốt vội bẩm:
"Ngô Thanh ốm đã lâu chưa khỏi, không thể
chịu hình. Còn hai vị tôn thất, chỉ
mắc tội nhỏ liên can mà thôi". Ngục quan
mượn gió bẻ măng, ra lệnh giam Ngô Thanh lại,
đợi khi khỏi bệnh sẽ xét xử, hai vị công
tử họ Triệu thì cho tại ngoại. Ra
lệnh cho địa phương đặt xác tên hầu nhỏ vào
quan tài, đợi trên xét nghiệm, trảm yêu kiếm là hung
khí thì đưa vào trong kho. Lại nói Ngô tiểu viên
ngoại ban đêm ở trong ngục rơi lệ than rằng:
"Cha mẹ sinh ra chỉ có một ta, từ nhỏ nửa
bước không rời, sao hôm nay phải chết ở quê
người! Nếu sớm biết thế nào cũng
chết, thỉ rời quê ra đi làm gì cho khổ
đến nỗi này!". Lại than
tiếp: "Tiểu nương tử, chỉ thấy được
khi sống yêu nhau, chứ ai biết được sự
quyến luyến sau khi chết, ân
biến thành oán, làm cho ta cốt nhục phải chia ly,
chết không có nơi chôn cất, ta khổ biết bao! Ta
hận biết bao!". Than vãn
đến nửa đêm, ngủ say lúc nào không biết. Mộng
thấy cô gái đa tình đẹp như hoa, diêm dúa yêu kiều,
tiến đến gần, cúi mình chúc lời vạn
phúc, nói: "Tiểu viên ngoại đừng căm giận
tiện thiếp. Tiện thiếp từ sau khi chết,
đã làm cảm động Thượng Nguyên phu nhân lúc đó đang
đi qua trên không, thương tiện thiếp vô tội chết
yểu, truyền cho thuật thái dương luyện hình,
giữ nguyên được hình hài như khi sống, được đi
rong chơi trên khắp thế gian. Cảm tấm lòng
tiểu viên ngoại còn thương nhớ, vì thế
mới không biết xấu hổ mà theo. Cũng là số
phận tiền duyên, có một trăm hai mươi ngày làm vợ
chồng. Nay đã trọn vẹn, tiện thiếp
sẽ tự đi. Đêm trước, tiện thiếp đến chào
từ biệt, không ngờ viên ngoại lại sinh
lòng ác, vác kiếm chém tiện thiếp. Hôm nay bác
lại, phải chịu một đêm lao tù. Tên hầu
nhỏ A Thọ, đang ở trong mộ cổ ở bên ngoài
Đông Môn, chỉ cần quan phủ xét nghiệm lại
tử thi, thì sẽ thoát tội. tiện thiếp
cũng đã xin Thượng Nguyên phu nhân được hai viên
ngọc tuyết đan, tiểu viên ngoại hãy thử
dùng một viên, bảo đảm trăm bệnh tiêu trừ,
nguyên khí trở lại như cũ; còn một viên,
phải cất giữ cẩn thận, đợi đến ngày
khác, nó sẽ giúp tiểu viên ngoại kết mối tơ
duyên đẹp đẽ, báo đáp cái ân huệ một trăm hai mươi
ngày vợ chồng vừa qua". Nói rồi, lấy ra
hai viên thuốc, to bằng hạt đậu, màu đỏ, rõ ràng là hai viên thần dược. Cô gái
lấy một viên cất vào ống tay áo tiểu viên
ngoại một viên đút vào mồm tiểu viên ngoại,
rồi nói: "Tiện thiếp đi đây, ngày chàng trở
về quê ngàn lần cầu xin đến thăm mộ hoang
của tiện thiếp, cũng là thể hiện tấm
lòng của lang quân không quên mối tình
cũ". Tiểu viên ngoại đang định hỏi cho
tường tận, bỗng nghe thấy tiếng chuông kêu bên
tai, giật mình tỉnh giấc. Trong miệng
cảm thấy có mùi thơm lạ, trong bụng như có một
cục lửa quay chuyển, mồ hôi ra như tắm.
Phải đợi đến khi trời sáng mới hết mồ
hôi, thân thể bỗng thấy khỏe mạnh. Tìm
trong ống tay áo, viên ngọc tuyết đan vẫn còn,
giống hệt như viên thuốc đã thấy trong
mộng. Tiểu viên ngoại giấu biệt mối
tình, chỉ nói lại lời nói của người
trong mộng rằng cần xét nghiệm thi hài tên hầu
nhỏ, là có thể biết được thật giả.
Ngục tư bẩm lên quan Đại Doãn. Mở quan tài ra
xem, chỉ thấy một cái chổi cũ, chẳng có một
vật nào khác nữa. Đến tìm ở ngôi mộ
cổ ngoài Đông Môn, thấy tên hầu nhỏ A Thọ như
đang đắm chìm trong giấc ngủ say trong một cái
quách đá vỡ, mọi người lấy nước gừng
đổ cho uống, A Thọ tỉnh lại, hỏi tai sao
lại đến đây và đến như thế nào, tên
hầu nhỏ chẳng biết chút gì. Ngục tư đem
A Thọ và cái chổi cũ đến trình trước
mặt quan Đại doãn, gọi chủ quán đến
nhận, quả thực A Thọ chưa chết, lúc đó
mới biết tất cả đều do yêu nữ làm ra.
Đại doãn đuổi mọi người lui ra. Hoàng
Phủ Chân Nhân biết trảm yêu kiếm không linh, bỏ
lên núi tu đạo. Hai anh em công tử họ Triệu đến
đón tiểu viên ngoại, mồm liên tục nói: "Chúc
mừng! Chúc mừng!". Chủ quán
cũng đến tạ tội. Ba người từ biệt
chủ quán, dẫn đám người hầu, hoan hỷ trở
về phủ Khai Phong.
Cách thành hơn năm mươi dặm, có
một thị trấn lớn, đoàn người đến
nghỉ ở một quán trọ. Trông thấy trên
tường của ngôi nhà lớn bên cạnh, dán một
bảng yết thị mời danh y như sau:
"Nhà tôi có ái nữ bị
bệnh nguy cấp, mê man, bất tỉnh. Danh y bốn
phương, nếu ai chữa trị được, xin hậu tạ
mười vạn bạc, hoa hồng rượu dê phụng
nghênh, quyết không dám sai lời".
Ngô tiểu viên ngoại xem xong,
hỏi tiểu nhị: "Nhà bên cạnh là nhà ai? Bị
bệnh gì? Không có người biết sao?".
Tiểu nhị đáp: "Đất này gọi là Chử gia
trang, nhà bên cạnh là nhà của Chử viên ngoại. Có
một người con gái đẹp như hoa như ngọc, tuổi
mới mười sáu. Đã có nhiều người đến
cầu hôn, nhưng lão viên ngoại vẫn chưa gả cho
ai. Trong vòng một tháng, bỗng mắc một
bệnh, phát điên nói nhảm, không thiết ăn
uống. Rất nhiều thái y xem bệnh bốc
thuốc, bệnh chỉ tăng không giảm. Thật đáng
tiếc cho cô gái nết na, khó gặp trên đời. Nay xem ra
sắp chết, hai vợ chồng lão viên ngoại
ngày đêm kêu khóc, chỉ còn biết cầu thần
lễ Phật, làm việc thiện để giải phúc,
đã chi không biết bao nhiêu là tiền bạc
rồi". Tiểu viên ngoại nghe nói, trong lòng
mừng thầm, nói: "Tiểu nhị ca, phiền môi
giới giúp, tôi muốn cưới cô gái này làm vợ".
Tiểu nhị nói: "Tiểu nương tử đang thập tử
nhất sinh, quan nhân nếu muốn cầu thân, hãy
đợi khi khỏi bệnh". Tiểu viên ngoại nói:
"Tôi biết trị bệnh cuồng. Không cần
tiền bạc tạ ơn, chỉ cần đồng ý cho
tôi thành hôn, tôi mà ra tay, bệnh ắt khỏi
liền". Tiểu nhị nói: "Xin mời quan nhân
ngồi, tiểu nhân lập tức đi chuyển
lời". Chỉ trong giây lát, đã thấy tiểu
nhị dẫn Chử công đến quán, cùng ba người tương
kiến. Chử viên ngoại hỏi: "Chẳng hay
vị tiên sinh nào có thể trị bệnh?".
Hai anh em họ Triệu chỉ tay nói: "Vị Ngô
tiểu viên ngoại này". Chử công nói: "Nếu
tiên sinh chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ,
những lời viết trên tờ yết thị kia,
quyết không sai một ly". Ngô tiểu viên ngoại
nói: "Vãn sinh họ Ngô tên Thanh, nhà ở một
phố lớn trong thành thuộc bản phủ. Cha mẹ
đều còn, gia tư nhỏ bé, lẽ nào lại cho
tiền thưởng vạn bạc là ít ỏi. Nhưng vãn
sinh tuổi mới hai mươi, chưa thành gia thất. Từ lâu
đã ngưỡng mộ tiểu nương tử dung mạo
đức hạnh vẹn toàn, nếu được kết duyên
Tấn Tần, sẽ xin nhận việc chữa trị,
khỏi phải đi tìm Lư Biển". Hai anh em họ
Triệu đứng bên cạnh, cũng nói nhiều lời
tốt đẹp, Khoe nhà họ Ngô là danh môn phú thất,
lại khoe tiểu viên ngoại là người trung hậu.
Chử công yêu con gái, không việc gì không làm, nên cũng
ưng thuận. Liền nói: "Nếu quả chữa
khỏi bệnh cho tiểu nữ, già này xin đem hòm
nữ trang nho nhỏ, gửi đến quý phủ thành
hôn". Ngô Thanh nói với hai anh em họ Triệu: "Nay
nhờ hai huynh làm mối, không thể chối từ".
Chử công nói: "Đâu dám". Ngay sau đó, Chử công
mời cả ba người đến nhà, thiết tiệc
khoản đãi, Ngô Thanh nôn nóng, nói với lão viên ngoại:
"Xin dẫn đến phòng của lệnh á, để
xem bệnh cho thuốc". Chử công đi trước, Ngô
Thanh theo sau. Cũng là duyên phận đương nhiên, Ngô tiểu
viên ngoại vừa vào cửa, cô gái lập tức không
điên nữa. Ngô tiểu viên ngoại giả vờ xem
mạch, nhũ mẫu vén màn lên, chỉ nghe tiếng
vòng vàng leng keng, một cánh tay ngọc ngà đưa ra. Thực là:
Chưa biết rõ
mặt hoa,
Thấy trước bàn tay ngọc.
Tiểu viên ngoại xem mạch hai tay xong, như trông thấy
thần thấy quỷ, nói: "Bệnh này do tà ma ám
hại, ngoài vãn sinh ra, không ai có
thể chữa khỏi". Nói rồi, lấy ra viên
ngọc tuyết đan, hòa với nước giếng khơi,
cho tiểu nương tử uống. Cô gái bỗng nhiên thấy
tinh thần sảng khoái, bệnh đã khỏi hẳn.
Chử công cảm tạ hết lời. Ban ngày, cả ba
người cùng vui uống rượu tại nhà Chử công. Ban
đêm, Chử công mời ngủ trong thư phòng. Sáng hôm sau,
lại mời rượu. Hai anh em họ Triệu nói:
"Quấy quả nhiều rồi, xin được cáo
từ. Chỉ có điều là đối với việc
hôn nhân của Ngô tiểu viên ngoại, không nên thất
tín". Chử công nói: "Tiểu nữ mang ơn cứu
bệnh, lẽ nào dám vong ân phụ
nghĩa. Đâu dám coi lời hứa không bằng mạng
sống của mình". Tiểu viên ngoại
liền bái tạ nhạc phụ. Chử công bày lễ
tiễn đưa. Ba người không nhận bất cứ một
vật nào, chào từ biệt về nhà. Ngô lão viên
ngoại thấy con khỏi bệnh trở về,
mừng vui như thế nào, khỏi phải nói. Hai anh em
họ Triệu đem việc hôn nhân nói ra, lão viên
ngoại mười phần mỹ mãn. Chọn ngày ăn hỏi, sáu lễ đã xong, Chử công
chuẩn bị đồ cưới nghìn vàng, thân tiễn
con gái qua cửa thành thân. Ngô tiểu viên ngoại dưới
ánh nến hoa, nhìn cô dâu, giật mình: thật
giống mỹ nữ mặc áo màu hạnh hoàng đã
gặp gỡ ở bên hồ Kim Minh trước đây. Qua năm
bữa nửa tháng, vợ chồng quen hơi. Ngô tiểu viên
ngoại hỏi vợ, quả là hai ngày trước tiết
Thanh Minh năm ngoái, có vào thành thăm hỏi người thân,
mình mặc màu áo hạnh hoàng, và có đến hồ Kim
Minh du ngoạn. Thực là lòng người ước
nguyện, trời cao xui khiến. Vị tiểu nữ
họ. Chử cũng có tiểu danh là Ái Ái. Ngô tiểu
viên ngoại đem chuyện này nói cho hai anh em họ Triệu
biết, cả hai người đều cho là kỳ lạ:
"Mối nhân duyên này đích thị do Lư nữ tác thành, không
được quên ơn". Ngô tiểu viên ngoại ngay ngày hôm đó
đến Lư gia điếm ở bắc hồ Kim Minh, kể
chuyện về con gái của Lư gia, dân vàng gấm, bái
nhận hai vợ chồng Lư Vinh làm nhạc phụ
nhạc mẫu, xin được bốc mộ, mua quan tài
cải táng. Lư công là dân thường nơi chợ búa, được
viên ngoại nhận thân, nói gì cũng nghe. Tiểu
viên ngoại xin âm dương chọn ngày tốt, trước tiên
dùng ba con vật tế lễ, đốt đồ cúng, rồi
sau đó đào mộ mở áo quan.
Vị tiểu nương tử Ái Ái sắc mặt vẫn như
lúc sống, mùi hương vẫn chưa tan, đó là nhờ thuật
Thái Âm luyện hình mà có kết quả như vậy. Ngô
tiểu viên ngoại ca ngợi hồi lâu. Cải táng xong,
mời cao tăng cúng lễ bảy ngày bảy đêm. Đến đêm
lại mộng thấy Ái Ái đến tạ ơn, từ đó
mất hẳn tung tích. Về sau Ngô tiểu viên ngoại
cùng Chử Ái Ái bách niên giai lão. Hai vợ chồng Lư
công nhờ tiểu viên ngoại lo việc hậu sự,
đó cũng là cái đức của tiểu viên ngoại.
các tập khác :
1|2|3|4|5|6|7|8|9|10|11|12|13|14|15|16|17|18|19|20
|