Con Nhện
Chính nơi ấy là ý chí không hề báo cái chết.
Ai hiểu thấu được bí ẩn của ý chí với
tất thảy sức mạnh của nói?
Joseph Glanvill.
Chàng sinh viên y khoa Richard Brakemon đã
chuyển đến phòng số bảy tại khách sạn
nhỏ "Stevence" ở số sáu phố Alfred Stevence
sau khi liên tiếp vào ba ngày thứ Sáu trước tại chính
căn phòng đó có ba người treo cổ tự tử trên
cái xà ngang cửa sổ.
Người thắt cổ đầu tiên
là một tay chào hàng người Thụy Sỹ. Chỉ mãi
đến tối thứ Bảy người ta mới phát hiện
ra xác anh ta, bác sĩ đã xác định được rằng anh
ta chết vào quãng giữa năm và sáu giờ chiều thứ
Sáu hôm qua. Cái xác treo lủng lẳng dưới một cái móc
to được đóng chặt vào khung cửa sổ ở đúng chỗ
mà cái khung ấy tạo ra một cái giá chữ thập, và
có lẽ nó được dùng để treo áo. Kẻ tự vận
đã treo mình bằng cái dây rèm, cửa sổ đóng. Bởi
lẽ cửa sổ rất thấp nên hai dầu gối
của kẻ xấu số thõng chạm sàn phòng,
điều đó chứng tỏ anh ta phải bộc lộ sức
mạnh ý chí ghê gớm lắm để thực hiện
cái ý định quyên sinh của mình. Sau đó người
ta biết thêm được là anh ta đã có vợ và cái chết
này khiến anh ta bỏ lại bốn đứa con; ngoài ra,
người ta cũng biết hoàn cảnh kinh tế của
người chết là hoàn toán sung túc và anh ta là người vui
tính và vô tư lự.
Vụ tự tử thứ hai trong
căn phòng này không khác lắm với vụ thứ nhất.
Nghệ sĩ Krauze vốn biểu diễn các trò ảo
thuật tung hứng trên xe đạp cho một rạp xiếc
và tiết mục ảo thuật của anh rất ăn
khách, anh ta cũng chuyển tới phòng số bảy
hai ngày sau đó. Vì anh ta không tới rạp xiếc vào
ngày thứ Sáu sau đó nên ông giám đốc cử một nhân viên
soát vé và xếp chỗ đến gọi anh ta. Ông nhân viên đã
thấy nhà nghệ sĩ ảo thuật chết treo dưới
cái xà ngang cửa sổ trong căn phòng số bảy
không khóa: đúng như cái khung cảnh mà vị khách trọ đầu
tiên đã chết. Vụ tự vẫn này chẳng kém bí
ẩn hơn vụ đầu. Nhà nghệ sĩ rất được
công chúng ái mộ này được trả lương rất cao, anh mới
chỉ hai mươi lăm tuổi và đã nếm đủ mọi
niềm vui sướng của cuộc đời. Và người quá
cố cũng chẳng để lại một dòng thư
tuyệt mệnh cũng như bất kỳ lý do gì
giải thích hành vi của mình. Sau cái chết của
mình anh không còn ai thân thích, trừ bà mẹ mà cứ
ngày đầu tiên hàng tháng cậu con trai đều cẩn thận
gửi hai trăm mark về chu cấp cho bà.
Đối với bà Dubonnais, nữ chủ
nhân khách sạn này, nơi rất hãn hữu có khách hàng là
người thuộc đám nghệ sĩ của các nhà hát tạp
kỹ ở khu Monmartre kế cận, thì vụ tự
sát bí ẩn thứ nhì kia quả đã có những hậu
quả thật tồi tệ. Một số khách trọ đã
rời khách sạn. Còn những khách hàng thường
xuyên khác của bà thôi không còn ghé lại đây nữa. Bà
liền tới hỏi ý kiến và lời khuyên của
ông bạn thân, ngài chánh cẩm khu vực chín, ông này hứa
với bà là sẽ làm tất cả những gì thuộc
thẩm quyền mình. Và trên thực tế, ông ta không
chỉ bắt tay điều tra nguyên do tự vẫn của
hai vị khách trọ một cách mẫn cán, nhiệt tâm mà
còn tìm được cho bà ta một khách trọ mới
cho căn phòng bí ẩn kia.
Charles Maria Cheaumie phục vụ ở
cục cảnh sát và tình nguyện đồng ý đến
ở phòng số bảy, ông ta từng là một con
sói biển già đời đã tòng
ngũ thủy quân mười một năm ở hạm đội.
Khi ông ta còn mang hàm trung sĩ thì đã ngược
xuôi tới vùng Bắc kỳ và Trung kỳ Việt Nam nhiều
lần, từng một mình đứng gác trên vọng
gác nhiều đêm ròng và nhiều lần chơi cho bọn
cướp biển hàng tràng đạn liên thanh khi chúng mang cờ
vàng mon mem đến gần chòi gác trong bóng tối mịt
mùng. Bởi thế nên người ta có cảm giác ông ta sinh ra
trên đời để saÜn sàng đón gặp "những bóng
ma" mà bây giờ đã làm cho dãy phố Alfred
Stevence trở nên khét tiếng. Ông Cheaumie dọn vào phòng
ở chiều tối Chủ nhật và sau khi ngủ ngon
lành, thầm cảm ơn bà chủ khách sạn Dubonnais đã
khoản đãi bữa ăn tối thật ngon và thịnh
soạn.
Hàng ngày vào buổi sáng và buổi
chiều tối Cheaumie phải đến gặp chánh cẩm
để báo cáo ngắn gọn về mọi sự. Mấy
ngày đầu những báo cáo ấy chỉ giới hạn ở
lời thông báo rằng tất cả đếu ổn thỏa
và ông không hề thấy gì hết. Song vào chiều tối
thứ Tư thì ông ta cho biết bắt đầu dò
được những dấu vết nào đó. Với yêu cầu của
ngài chánh cẩm cần trìng bày rõ hơn thì ông
ta chối từ và nói thêm rằng hiện thời ông ta
chưa tin chắc kiệu sự phát hiện đó có mối liên
hệ nào với hai vụ tự tử trong căn phòng
này hay không. Vả lại ông cũng bảo rằng ông sợ
trở nên lố bịch, buồn cười và rằng ông ta
sẽ kể tỉ mỉ hơn khi có đủ tự tin. Ngày thứ
Năm ông ta xử sự kém tự tin hơn và đồng thời có vẻ
nghiêm trọng hơn, nhưng ông ta chẳng kể ra điều gì
mới mẻ cả. Vào sáng thứ Sáu ông có vẻ bị
kích động mạnh, ông ta nói nửa đùa nửa thật rằng
dù thế nào đi nữa thì cái cửa sổ đó thực
sự có một sức thu hút kỳ lạ nào đó. Song ông
Cheaumie khẳng định điều này tuyệt nhiên không có mối
liên hệ gì đến việc tự sát và chắc người
ta sẽ chế nhạo ông nếu ông nói thêm điều gì
đó vào những gì đã kể. Buổi chiều hôm ấy
ông không đến đồn cảnh sát nữa: người ta thấy
ông chết treo cổ ở thanh xà ngang cửa sổ trong
căn phòng đã ở.
Lần này thì cảnh huống
tự tử cũng hệt như hai vụ trước đến
từng chi tiết nhỏ: hai chân kẻ thắt cổ chạm
sàn nhà, thay vì dây thừng thì một sợi dây lấy
từ rèm cửa được dùng để tự vẫn. Cửa
sổ mở, cửa ra vào không khóa; cái chết đến vào
lúc sáu giờ chiều. Mồm kẻ chết treo cứ há
hốc, lưỡi thè lè ra ngoài.
Hậu quả của vụ chết
người thứ ba ở trong căn phòng số bảy là
vào hôm ấy, tất cả các khách trọ của khách sạn
"Stevence" đã ra đi; ngoại trừ một ông
giáo người Đức ở phòng số mười sáu, song
việc ở lại này có lý do của nó: ông ta lợi
dụng việc này để giảm được tiền thuê phòng
xuống một phần ba: một sự an ủi quá nhỏ
nhoi cho bà Dubonnais là việc ngày hôm sau cô Mari Garder, minh tinh
nhà hát Opera Comique đã đi một cỗ xe ngựa rất
sang trọng đến gặp bà và trả hai trăm frăng để
mua sợi dây màu mà kẻ xấu số đã dùng để
treo cổ tự vẫn. Cô ấy làm như vậy là vì
cái vật đó sẽ mang lại hạnh phúc và hơn nữa,
người ta sẽ viết về việc này trên báo chí.
Nếu việc nói trên lại xảy
ra ngay vào mùa hè, tháng Bảy hay tháng Tám chẳng hạn thì
bà Dubonnais chắc sẽ nhận được số tiền
bán nhượng sợi dây kia gấp ba lần vì lúc đó
báo chí có thể dành trọn cả một tuần viết
kín các cột báo về chủ đề này. Nhưng vào giữa
mùa chính trị sôi nổi này thì báo chí còn vướng
bận biết bao đề tài: nào bầu cử, nào các sự
kiện ở Marốc, ở Ba Tư, nhà văn vỡ nợ tại
New York, rồi ba vụ án chính trị, và thực tế
báo chí không còn chổ để đăng tải sự vụ
kia nữa. Kết quả là biến cố trên phố
Alfred Stevence thu hút ít sự chú ý hơn là nó đang có. Nhà đương cục đến lập
biên bản ngắn ngủi, và chỉ có thế là vụ
án kết thúc.
Chàng sinh viên y khoa Richard Brakemon chỉ
biết có biên bản đó thôi khi quyết định thuê cho mình
căn phòng ấy. Chàng hoàn toàn chẳng biết một yếu
tố, một chi tiết nhỏ, vả lại chi tiết
đó lại nhỏ nhoi và tầm thường đến nỗi
ngài chánh cẩm và chẳng ai trong số những nhân chứng
thấy cần thiết phải thông báo cho các phóng viên biết
đến. Chỉ mãi sau này, sau khi câu chuyện kỳ lạ
xảy ra với chàng sinh viên, người ta mới sực nhớ
đến sự việc bé nhỏ ấy. Sự thể là
khi các nhân viên cảnh sát gỡ viên trung sĩ Charles Maria
Cheaumie ra khỏi cái thòng lọng oan nghiệt thì
một con nhện đen to kình bò từ mồm ông
ta ra. Người hầu phòng lấy ngón tay búng con nhện
và thốt lên:
- Quỷ tha ma bắt, lại cái
con côn trùng độc địa này.
Sau đó trong thời gian điều tra vụ
việc liên quan đến Brakemon, anh ta thông báo rằng khi lôi
xác người chào hàng Thụy Sỹ kia ra khỏi sợi dây
thắt cổ thì đúng con nhện này đã bò từ
vai ông ta xuống. Nhưng Richard Brakemon không hề biết việc
đó.
Chàng đã dọn tới ở phòng
số bảy hai tuần sau vụ treo cổ tự tử
thứ ba, ấy là vào ngày Chủ nhật. Chàng ghi vào nhật
ký tất cả những gì đã nếm trải
trong căn phòng ấy.
Nhật Ký Của Richard
Brakemon, Chàng Sinh Viên Y Khoa.
Thứ Hai, ngày Hai mươi tám tháng Hai.
Mình bắt đầu ở
căn phòng này ngày hôm qua. Sau khi mở hai gói đồ mình
bỏ các đồ đạc ra và sau đó đi nằm nghỉ. Mình
ngủ thật ngon, đồng hồ điểm chín giờ khi
có tiếng gõ cửa đánh thức mình dậy. Đó
là bà chủ mang bữa ăn sáng lên cho mình. Bà ấy đặc
biệt quan tâm đến mình, điều đó được thấy
rõ theo món trứng, món giăm bông và ly cà phê tuyệt ngon
mà bà đích thân mang vào phòng.
Mình rửa mặt và mặc quần áo, rồi sau đó
bắt đầu quan sát xem người hầu phòng dọn
dẹp phòng mình thế nào. Đồng thời mình
châm tẩu.
Thế là mình đã ở đây
rồi. Mình hiểu rõ là mình đã can dự
vào một trò chơi nguy hiểm, nhưng cùng lúc ấy mình
nhận thức được rằng sẽ đạt được nhiều
điều nếu lần ra được dấu vết đích thực.
Nếu như trước đây Paris thật dễ sống, giờ
đây để tồn tại ở Paris ấy đâu có rẻ như
trước, thì mình bất luận thế nào cũng
có thể đặt cược cái cuộc đời chẳng lâu
dài gì của mình. Nhưng chính ở đây có một cơ
hội: thật là tuyệt, mình sẽ thử vận
may của mình.
Tuy nhiên cả những người
khác cũng muốn được thử vận may. Không ít hơn
hai mươi bảy người, một số tới cơ quan cảnh
sát, một số khác tới thẳng chỗ bà chủ để
yêu cầu được ở căn phòng đó. Trong số những
kẻ kỳ vọng có cả ba phụ nữ. Như vậy
chẳng thiếu người trong cuộc cạnh tranh này: có
lẽ tất thảy mọi người đó cũng nghèo kiết
như mình.
Nhưng mình "đã được
cuộc". Vì sao nhỉ? Chà, có lẽ, mình là
người duy nhất đã phỉnh được cảnh sát nhờ
một "ý tưởng". Còn phải nói, ý
tưởng ấy quả là hay! Tất nhiên, đó chẳng gì
khác hơn một tin vịt mà thôi.
Chính những lời tường trình
ấy là được dành cho cảnh
sát, và bởi thế nên giờ đây mình khoái trá muốn
nói với các ngài ấy rằng mình đã khéo phỉnh
phờ được họ. Nếu ngài chánh cẩm là một
con người khôn ngoan thì ông ta sẽ nói: "Hừm,
chính vì thế mà tay Brakemon ấy là người thích hợp
hơn cả".
Tuy vậy mình cũng thờ
ơ, chẳng xao động gì nếu sau này ông ta có nói như
thế. Giờ đây, dù thế nào đi chăng nữa, mình đã
ngồi đây rồi. Và mình cho cái việc mình xỏ
mũi được các đức ông ấy là một điềm tốt
đẹp.
Mình bắt đầu từ việc
đến gặp bà Dubonnais, nhưng bà đẩy mình lại
cơ quan cảnh sát. Suốt một tuần mình lui tới
đó và hàng ngày chỉ nhận được độc một câu trả
lời rằng đề nghị của mình đã
"được nhận để cứu xét" và rằng mình
phải đến vào ngày mai. Phần lớn những kẻ
tranh đua với mình đã nhanh chóng lùi bước, rất
có thể là họ muốn làm việc gì đó khác hơn là cứ
ngồi trong cơ quan cảnh sát ngột ngạt để chờ
đợi hàng giờ liền. Còn đối với mình
thì có lẽ sự kiên trì của mình đã
khiến thậm chí ngài chánh cẩm không thể Énhẫn nại
hơn được nữa. Cuối cùng ông ta tuyên bố với mình
một cách kiên quyết để mình không còn tới
đó nữa, vì việc này sẽ chẳng dẫn đến
kết quả gì hết. Ông ta bảo là rất cảm
ơn mình cũng như cảm ơn mọi người khác do thiện
ý của mình, nhưng những "lực lượng
tài tử, không chuyên nghiệp" không hề cần thiết
cho công việc này. Nếu như mình chẳng hề có một
kế hoạch hành động được soạn thảo kỹ
lưỡng thì sẽ chẳng ăn nhằm gì hết...
Mình đã bảo ông ta rằng
có một kế hoạch hành động. Lẽ đương nhiên mình
đã chẳng có kế hoạch nào sất và mình
không thể nói cho ông ta hay dù chỉ một lời về
cái kế hoạch ấy. Nhưng mình đã tuyên bố
với ông ta rằng mình sẽ công bố kế hoạch
của mình, một kế hoạch rất hay, nhưng rất
nguy hiểm, có thể đem lại các kết quả mà hoạt
dộng của các viên cảnh sát nhà nghề vẫn dẫn
tới, chỉ trong trường hợp nếu ông ta hứa
với mình rằng sẽ đích thân nhận thực hiện
kế hoạch đó. Nhờ có thế mà ông ta hết lòng
cảm ơn mình và bảo ông ta có chút thì giờ nào
để soạn ra được một kế hoạch như thế.
Nhưng ở đây mình đã nhận thấy là có chỗ
dựa, hơn thế nữa, ông ta hỏi liệu mình
có thể tiết lộ kế hoạch đó cho ông ta biết
hay không.
Mình đã làm điều đó. Mình
kể cho ông ta nghe một thứ huyễn hoặc vô cùng
mà trước đó một giây mình chẳng có một chút
khái niệm nào hết, tự mình cũng chẳng hay
điều đó xuất hiện từ đâu mà lọt vào đầu mình.
Mình bảo ông ta rằng trong mọi thời khắc
của một tuần thì nổi bật lên một
giờ có ảnh hưởng thần bí, kỳ lạ nào đó đến
con người ta. Ấy là giờ chúa Kitô biến khỏi
ngôi mộ của Người để xuống địa ngục,
tức là giờ thứ sáu buổi chiều ngày cuối
cùng của tuần lễ theo lịch Do Thái. Mình cũng
nhắc ông ấy rằng chính vào giờ đó, thứ Sáu, giữa
năm và sáu giờ đã xảy ra ba vụ tự sát. Mình
không thể nói gì hơn nữa với ông ta, mình nhắc
ông ta như thế, nhưng sau đó có đề nghị ông ấy chú ý
đến Mặc Khải của thánh Giăng.
Ngài chánh cẩm nhíu mày tựa hồ
như đã hiểu được điều gì đó, ông ta cảm
ơn mình và đề nghị đến buổi
chiều lại đến nữa. Mình vốn là người
chính xác về giờ giấc nên đã đến đúng giờ
hẹn tại văn phòng ông ta. Trước mắt ngài cẩm
ở trên bàn có cuốn Kinh Tân Ước. Vào thời gian xảy
ra chuyện ấy mình cũng có phần khảo cứu
tương tự: mình đã đọc hết sách Khải Huyền
và chẳng hiểu lời nào trong đó cả. Rất có thể
ngài chánh cẩm thông thái hơn mình, bất luận thế
nào thì ông ta cũng rất nhã nhặn tuyên bố
rằng bất chấp sự ngụ ý tối nghĩa
của mình thì ông ta cũng đoán định được
kế hoạch mình đưa ra. Sau đó ông ta bảo là saÜn sàng
ủng hộ ý muốn của mình và trợ
giúp mình ở mức có thể được.
Phải thừa nhận rằng
ông ta cực kỳ ân cần, cởi mở với mình.
Ông ta đã ký kết với bà chủ khách sạn một
điều kiện mà theo đó bà ta có bổn phận chăm nưôi mình
hoàn toàn trong khách sạn. Ngài chánh cẩm cũng giao cho mình
khẩu súng lục rất nhạy và một chiếc còi
cảnh sát; các viên cảnh sát trực ban được lệnh
phải thường xuyên hơn nữa đi tuần phòng dọc
con phố nhỏ Alfred Stevence và saÜn sáng tới chỗ mình
ngay khi có một dấu hiệu mình đưa ra. Nhưng quan trọng
hơn hết là việc ngài đã đặt trong phòng mình
một chiếc điện thoại để bàn, tạo cho mình
điều kiện có thể luôn luôn liên lạc được với
đồn cảnh sát. Đồn cảnh sát cách đây cả thảy
có bốn phút đi bộ, và bởi thế mình sẽ được
trợ giúp rất nhanh nếu có xảy ra chuyện gì
khẩn trương. Sau khi lưu ý đến tất cả những
lẻ nói trên thì mình không thể hình dung mình
sợ cái gì cơ chứ.
Thứ Ba, ngày mồng Một tháng
Ba.
Cả hôm qua lẫn hôm nay chẳng
có chuyện gì xảy ra. Bà Dubonnais đã đem đến
một sợi dây mới để lồng rèm cửa lấy
từ phòng bên cạnh, vì giờ đây trong khách sạn
này phần lớn phòng là trống vắng. Nói chung,
bà tận dụng bất cứ dịp nào đến chỗ
mình, và mỗi lần ấy bà đếu đem một cái gì
đó tới. Mình đề nghị bà kể lại một
lần nữa cho mình nghe toàn bộ chi tiết về
những gì đã xảy ra trong căn phòng mình
đang ở, song mình chẳng biết thêm điều gì
mới nữa cả. Bà ta có một ý kiến độc
đáo riêng về nguyên nhân các vụ tự sát. Đối với
nhà nghệ sĩ thì bà nghĩ rằng ở đây có dính
líu đến một cuộc tình bất hạnh: trước
vụ việc đó một năm thì anh này cũng đã từng
sống ở đây và có một thiếu phụ trẻ thường
ghé thăm anh ta, nhưng lần này thì chẳng thấy bóng
dáng cô ta đâu nữa. Còn về ông người Thụy Sỹ
thì bà ta không rõ điều gì đã buộc
ông ta đi đến một quyết định chết người đến
thế, nhưng làm sao mà hiểu hết lòng người?
Chà, còn ông trung sĩ thì chẳng nghi ngờ gì
nữa, ông ta tự tử chỉ là để chọc tức cô
gái ấy mà thôi.
Phải nói rằng những lời
giải thích của bà Dubonnais mang cái nét nông cạn nào đấy,
nhưng mình cứ để bà ta thả sức nói dông nói
dài vì dẫu sao điều đó cũng khiến mình
được giải trí.
Thứ Năm, ngày mồng Ba tháng Ba.
Vẫn chưa có điều gì mới.
Ngài chánh cẩm gọi điện cho mình chừng hai lần
một ngày, mình đáp lại rằng mình thấy rất
khỏe, có lẽ lời báo cáo ấy không hoàn toàn làm ông ta
thấy thỏa mãn. Mình lấy các cuốn sách y
học ra và bắt đầu nghiên cứu, như vậy sự
giam hãm tự nguyện sẽ mang lại cho mình
ít ra một lợi ích nào đó chứ.
Thứ Sáu, ngày mồng Bốn tháng
Ba, hai giờ chiều.
Mình ăn trưa thật ngon miệng:
bà chủ đã đãi mình một nửa chai sâm
banh cho bữa trưa. Đó quả là nữa ăn thịnh soạn
đích thực dành cho kẻ tử tội. Bà ấy nhìn
mình tựa hồ mình đã chết đến ba
phần tư rồi. Khi rời phòng, nước mắt
lưng tròng, bà ấy đề nghị mình đi theo ra
cùng: có lẽ bà ấy sợ mình cũng sẽ treo cổ
tự vẫn "để chọc tức cô ấy".
Mình cẩn thận
xem xét cái dây mới treo rèm cửa. Như thế có nghĩa là
bây giờ mình phải thắt cổ bằng nó chăng?
Hừm, mình có quá ít mong muốn để làm việc đó.
Hơn nữa, cái dây này cứng quèo và thô nhám khó mà buộc
thành thòng lọng được; cần phải có một
ham muốn lớm lao để mà theo gương ba kẻ xấu số
kia. Giớ mình ngồi bên bàn, bên trái là cái điện thoại,
bên phải có khẩu súng lục. Mình không hề cảm
thấy dù chút ít hoảng sợ, nhưng trong thân tâm có sự
tò mò.
Sáu giờ chiều.
Chẳng gì xảy ra cả,
suýt chút nữa mình nói: thật tiếc! Cái giờ
độc địa chết chóc ấy đã đến và đã qua, và nó hoàn toàn
giống như các thời khắc khác mà thôi. Tất nhiên mình
sẽ không phủ định rằng có những khoảnh khắc
mình cảm thấy một nỗi ham muốn không gì
chế ngự nổi được lại gần cửa sổ,
quả đúng như vậy, nhưng mà hoàn toàn vì những động
cơ khác! Ngài chánh cẩm đã gọi điện dễ đến
mười lần vào khoảng giữa năm giờ và sáu giờ,
ông ta cũng tỏ vẻ sốt ruột như chính mình
vậy. Nhưng đối với bà Dubonnais thì bà ta thấy
hài lòng: qua suốt một tuần rồi mà tay khách
trọ ở phòng số bảy vẫn không treo cổ
tự vẫn. Thật không tin được!
Thứ Hai, ngày mồng Bảy tháng
Ba.
Mình bắt đầu tin rằng
sẽ chẳng phát hiện ra điều gì hết và mình
có khuynh hướng nghĩ về việc tự tử của
ba người trước đây ở căn phòng này là một sự
ngẫu nhiên đơn giản. Mình đã yêu cầu ông cẩm
thông báo lần nữa toàn bộ các chi tiết của ba vụ
tự sát, bởi vì mình thấy rõ là nếu
thâm nhập kỹ vào toàn bộ các cảnh huống thì
cuối cùng có thể đối mặt với nguyên nhân thực
sự. Còn đối với mình thì mình sẽ
ở đây lâu chừng nào có thể tùy theo sự việc. Tất
nhiên mình không biết Paris, nhưng mình ở đây không
mất tiền và được cấp dưỡng
rất tốt. Cần phải nói thêm là mình học
nhiều, tự cảm thấy rất hài lòng với
việc học tập. Và cuối cùng còn có một
nguyên nhân níu giữ mình ở đây nữa.
Thứ Tư, ngày mồng Chín tháng Ba.
Như vậy, mình đã tiến
thêm một bước. Nàng Clarimoda. Chà, chính mình còn
chưa kể gì về nàng Clarimoda cả. Thế là, nàng
là "nguyên nhân thứ ba" của mình mà vì đó
mình muốn ở lại đây, và vì nàng mà mình
đã muốn lại chỗ cửa sổ vào cái giờ
"tai ương" ấy, song tuyệt nhiên không phải là để treo cổ.
Clarimoda, nhưng vì sao mình lại gọi nàng như vậy?
Mình không có một khái niệm nào dù nhỏ bé nhất
về tên gọi của nàng, nhưng vì sao lúc đó ở nơi
mình bỗng xuất hiện ý muốn gọi
nàng là Clarimoda. Và mình saÜn sàng đánh cuộc rằng chính
tên nàng là như thế nếu như khi nào có dịp hỏi tên
nàng.
Mình đã nhận ra Clarimoda
vào ngày đầu tiên. Nàng sống ở phía bên kia của con
phố rất hẹp mà khách sạn nơi mình ở nằm
tại đó: cửa sổ nhà nàng ở đối diện đúng cửa
sổ phòng mình. Nàng ngồi sau tấm rèm bên cửa
sổ. Tiện đây cần nói rằng nàng bắt đầu nhìn
mình trước khi mình nhàn nàng, rõ ràng là nàng
quan tâm đến mình. Ở đây chẳng có gì đáng ngạc
nhiên, cả phố biết vì sao mình ở đây,
bà Dubonnais đã săn sóc cho việc mình cư ngụ nơi
bà.
Cam đoan rằng mình không thuộc
số những người rất đa tình, mình luôn
thận trọng trong những mối quan hệ với phụ
nữ. Khi mà người ta từ tỉnh lẻ tới Paris
để học nghề y khoa và túi tiền vơi cạn thậm
chí cũng không đủ để ít ra được ăn no một lần
trong ba ngày thì đâu còn dám nghĩ tới tình
yêu. Như vậy, mình không nổi trội về kinh nghiệm
ái tình và lần này, có lẽ, mình đã xử
sự thật quá ngốc nghếch. Dù thế nào đi nữa
thì nàng khiến mình bởi vì nàng đúng là con
người như thế. Lúc đầu mình đâu có dám nghĩ đến
việc gây dựng quan hệ với cô nàng hàng xóm sống
đối diện phòng mình. Mình quyết định
là sống ở đây chỉ để tiến hành các quan sát;
nhưng nếu là như vậy thì dù mình có muốn thì
ở đây cũng chẳng có gì mà làm, thế cho nên mình
liền bắt đầu quan sát cô hàng xóm. Người ta không thể
nào mà cứ suốt ngày cắm cúi đọc sách chẳng dứt
ra để ngẩng đầu lên. Hơn nữa, mình đã
nói là có lẽ Clarimoda sống một mình trong căn phòng
nhỏ ấy. Phòng có ba cửa sổ, nhưng nàng luôn
luôn ngồi bên cánh cửa sổ đối diện cửa sổ
phòng mình, nàng ngồi và kéo sợi nên cái xa quay sợi
cổ xưa xinh xinh. Mình đã từng được thấy
một cái xa quay sợi như thế ở nhà bà mình,
nhưng bà không bao giờ sử dụng nó mà giữ gìn
nó như một hoài niệm về một người thân nào đó của
bà đã đi xa; thậm chí
mình còn không biết là thời nay người ta dùng
những cái xa quay sợi như thế. Cần nói thêm là cái xa
quay sợi của Clarimoda nhỏ xinh và duyên dáng, màu cái xa ấy
trắng hết và có lẽ nó được làm bằng ngà voi; có
thể nàng xe những sợi chỉ cực thanh mảnh
bằng cái xa quay sợi ấy. Nàng ngồi sau rèm cửa
suốt ngày và làm việc không nghỉ, nàng chỉ ngừng
việc khi trời đổ tối. Dĩ nhiên vào những
ngày trời ảm đạm này thì ở trên phố mình
ở chóng tối lắm, vào lúc năm giờ chiều là đã nhập nhoạng
rồi. Nhưng chẳng bao giờ mình nhìn thấy
ánh sáng đèn trong phòng nàng cả.
Vẻ ngoài của nàng thế nào nhỉ?
Điều đó thì mình chẳng biết rõ ràng.
Mái tóc đen của nàng vồng lên như sóng, còn khuôn mặt
nàng nom rất xanh xao. Mũi nàng hẹp và nhỏ với
đôi cánh mũi phập phồng, đôi môi nàng cũng lợt lạt
và mình có cảm giác hàm răng nhỏ của nàng sắc
như răng dã thú. trên đôi mí mắt có những vết quầng
thâm, nhưng khi nàng ngước mắt nhìn lên thì cặp
mắt to đen thẫm của nàng long lanh. Song mình cảm
nhận tất cả những vẻ ấy có lẽ nhiều
hơn là thực tế. Vì thực khó mà nhận ra cái gì
đó rành rẽ sau tấm rèm buông.
Có một chi tiết. Nàng luôn luôn vận
chiếc áo váy màu đen cao cổ có những chấm hạt đỗ
màu tím nhạt. Nàng lúc nào cũng mang đôi găng tay dài màu đen, có
thể nàng làm vậy do sợ hỏng đôi bàn tay vì
công việc. Những ngón tay thanh mảnh và dài ấy thoăn
thoắt lựa các sợi chỉ và kéo căng chúng gợi lên
nơi mình một ấn tượng lạ lùng: nom chúng hệt
như những con côn trùng nào đó có những cái cẳng dài.
Còn quan hệ giữa chúng mình
với nhau thì sao đây? Phải thừa nhận rằng
hiện thời những quan hệ ấy rất hời
hợt, nhưng dẫu sao mình vẫn cảm thấy
trên thực tế chúng sâu sắc hơn rất nhiều. Mọi
sự bắt đầu từ việc nàng nhìn sang cửa
sổ phòng mình và mình nhìn sang cửa sổ
phòng nàng. Và có lẽ mình được nàng thích bởi
vì có một đôi lần khi mình đi lại nhìn
nàng thì nàng mỉm cười với mình, và tất
nhiên mình mỉm cười đáp lại. Vậy là suốt
hai ngày bọn mình mỉm cười với nhau nhiều
hơn. Sau đó gần như cứ một tiếng mình lại
quyết định cúi chào nàng, nhưng mỗi lần định
như thế thì, một tình cảm vô thức nào
đó lại bảo mình chớ có làm.
Cuối cùng thì mình cũng
quyết định thực hiện ý định này: hôm nay
sau bữa ăn trưa. Và Clarimoda đã đáp lại cái cúi chào của
mình. Tất nhiên khó nhìn thấy vẻ gật đầu
của nàng nhưng dù sao mình cũng nhìn thấy điều
đó thật rõ.
Thứ Năm, ngày Mười tháng Ba.
Hôm qua mình đã ngồi lâu với
đống sách vở. Mình không thể nói rằng mình
đã học thật chuyên tâm. Không, mình đã xây
những lâu đài cát và ước mơ về
Clarimoda. Mình ngủ không yên giấc, nhưng mình đã
ngủ quá giấc đến gần trưa.
Khi mình đến gần cửa
sổ thì mình nom thấy Clarimoda. Mình chào
nàng và nàng gật đầu đáp lại. Nàng mỉm cười và
nhìn mình hồi lâu không rời mắt.
Mình muốn học, nhưng mình
không thể tìm được sự yên tĩnh trong tâm. Mình
ngồi bên cửa sổ và bắt đầu ngắm nàng. Lập
tức mình thấy nàng cũng đặt hai bàn tay lên đầu
gối. Mình bèn giật sợi dây để kéo tấm
rèm sang bên. Nàng cũng làm y hệt như thế hầu như cùng
một khoảnh khắc. Cả hai bọn mình đều
cười và nhìn nhau.
Mình mường tượng cả
hai ngồi như thế suốt cả một giờ.
Sau đó lại bắt tay vào
việc xe chỉ của mình.
Thứ Bảy, ngày Mười hai tháng
Ba.
Thời gian trôi nhanh quá. Mình
ăn, uống và ngồi bên bàn viết. Hút xong một điếu
tẩu, mình cắm cúi đọc sách. nhưng mình chẳng
đọc được một dòng nào hết. Mình cố
gắng tập trung, nhưng mình đã biết trước
rằng việc đó chẳng dẫn đến đâu cả. Sau đó
mình tiến lại cửa sổ. Mình gật đầu,
Clarimoda đáp lại. Bọn mình mỉm cười với
nhau không rời mắt suốt hàng giờ.
Hôm qua vào lúc sáu giờ chiều có một
cảm giác lo âu choáng ngợp lấy mình. Trời đổ
tối rất sớm và mình cảm thấy ghê sợ
thế nào ấy. Mình ngối bên chiếc bàn viết
và chờ đợi. Mình cảm thấy có một sức
mạnh nào đó không thể cưỡng nổi hút mình lại
cửa sổ, tất nhiên, mình không có ý định
treo sổ đâu mà chỉ đơn thuần muốn nhìn
Clarimoda. Cuối cùng mình nhảy ra khỏi ghế và
nấp mình sau tấm rèm. Mình có cảm giác chưa
bao giờ lại nhìn thấy nàng rõ ràng đến
thế mặc dù trời đã khá tối rồi. Nàng vẫn
đang xe sợi nhưng đôi mắt nàng đã hướng về mình.
Cảm giác hạnh phúc tràn ngập trong lòng mình,
nhưng đồng thời mình nếm trải một nỗi
khiếp sợ mơ hồ.
Tiếng chuông điện thoại reo
vang. Mình nổi cáu với lão chánh cẩm khó chịu
này, người ta đã cắt đứt dòng suy tưởng
của mình khỏi những phút mộng ảo kia bằng
những câu hỏi xuẩn ngốc liên miên.
Sáng nay ông ta cùng bà Dubonnais đến phòng
mình. Bà chủ rất hài lòng với mình, bà
ta thấy hoàn toàn vui vẻ với việc mình đã
sống hai tuần trong phòng số bảy. Song ngài
chánh cẩm đòi hỏi có những kết quả cụ
thể. Mình đã nói với ông ấy một số
ngụ ý bí ẩn về việc mình đã lần
ra một dấu vết rất lạ lùng và con lừa đó đã
tin mình. Bất luận thế nào thì mình cũng
sẽ còn sống ở đây lâu, và đấy chính là điều mong muốn duy
nhất của mình. Nhưng mình mong ở đây không phải
vì những món ăn và cái hầm rượu của bà
Dubonnais, lạy Chúa, mình mau chóng trở nên thơ ơ tất
cả những điều đó khi mà hàng ngày được ăn được
uống đến no nê. Cái lý do chính chỉ là vì cái
cửa sổ mà bà ta ghét cay ghét đắng và sợ hãi,
nhưng mình lại yêu quý vì từ đó mình
thấy được Clarimoda. Khi bật đèn phòng mình thì
mình không còn nhìn thấy nàng nữa. Mình
căng mắt để xem liệu nàng có ra khỏi nhà không, nhưng
chưa bao giờ mình nom thấy nàng ngoài phố cả.
Mình có một cái ghế bành tiện lợi và êm ái
cùng một cái chao màu xanh là cây che ngọn đèn, và cái đèn ấy tỏa cho mình
sự âm áp và tiện nghi. Ngài chánh cẩm đã mang cho mình
một gói thuốc hút, chưa bao giờ mình được hút
loại thuốc ngon như thế... Tuy nhiên mình cũng
không thể học hành được cho dù có tất cả những
thứ đó. Mình tự bắt mình phải đọc
hết hai hay ba trang, nhưng sau đó trong đầu mình xuất
hiện một ý nghĩ cho thấy mình chẳng
hiểu chữ nào trong số những điều vừa đọc.
Mắt mình ghi nhận các con chữ nhưng đầu óc mình
chối bỏ tư duy. Thật lạ lùng! Cứ như trong đầu
mình đã treo tấm khẩu hiệu: "Cấm
vào" vậy. Cứ như trong đầu chỉ cho phép vào độc
một ý nghĩ: Clarimoda.
Chủ nhật, ngày Mười ba tháng
Ba.
Sáng hôm nay mình nhìn thấy
một cảnh tượng nhỏ. Mình đi đi lại lại
ngoài hành lang khi người hầu phòng đang dọn dẹp
phòng mình. Trên khuôn cửa sổ bé trông ra sân có một
cái mạng nhện, con nhện vườn béo mẫm đang ở
giữa mạng. Bà Dubonnais không cho phép quét bỏ đi vì
giống nhện mang vận may mắn tới, và nếu
trong nhà không có nhện thì sẽ gặp điều kia
xuôi xuống theo một sợi tơ, nhưng người yêu của
nó giờ đây cũng làm theo cách đó. Cả hai con nhện rơi
xuống bệ cửa sổ; con đực gắng hết sức
bình sinh để thoát khỏi sự tróc nã. Nhưng muộn
mất rồi, bạn tình của nó đã dùng những
cặp cẳng mạnh khỏe quặp chặt lấy nó
và kéo nó về giữa tấm mạng. Đó chính là nơi vừa
mới hoan lạc của chúng, giờ trở thành nơi xử
trảm. Thoạt đầu gã tình nhân kia toan kháng cự,
nó nguều ngoào co giật những cái chân yếu mềm của
nó nhằm cố thoát ra khỏi những gọng kìm
ghê khiếp kia. Song cô bạn tình không nhả nó ra chút
nào. Nó dùng tơ nhện quấn chặt con đực trong vài phút
để nó không thể động cựa được dù chỉ một
cái chân. Sau đó con cái dùng những gọng kìm bám chặt
kia đè con đực và bắt đầu
ngấu nghiến hút dòng máu tươi trẻ từ cơ thể
gã bạn tình của nó. Mình đã nom thấy
lúc cuối cùng con cái khinh bỉ hất ra khỏi tấm
mạng nhện cái cục lầy nhầy méo mó kia gồm
những cái cẳng và lớp da bị những sợi tơ
quấn chặt.
Ái tình của những con côn
trùng kia là như vậy đấy! Chà, mình rất mừng vì
mình không phải là con nhện đực trẻ trung đó.
Thứ Hai, ngày Mười bốn tháng
Ba.
Mình hoán toàn thôi không nhìn
vào sách vở nữa. Suốt ngày mình ngồi bên cửa
sổ. Thậm chí khi trời sập tối mình vẫn
tiếp tục ngồi đó. Những lúc ấy mình
không còn thấy nàng nhưng mình nhắm mắt lại
và hình ảnh của nàng hiển hiện trước mắt.
Chà, trong nhật ký mình đã
kể về bà Dubonnais, về ngài chánh cẩm, về hai
con nhện và về nàng Clarimoda. Nhưng chưa có lời nào về
những phát hiện mà mình phải có trong căn phòng
này. Mình có lỗi trong việc ấy hay không nhỉ?
Thứ Ba, ngày Mười lăm tháng Ba.
Bọn mình đã nghĩ ra một
cuộc chơi lạ lùng gồm Clarimoda và mình, và hai đứa
mình chơi trò chơi ấy cả ngày. Mình gật
đầu với nàng và nàng cũng đáp lại ngay bằng một
cái gật đầu. Sau đó mình bắt đầu gõ các
đầu ngón tay lên mặt kính; khi nàng vừa nhận ra điều
đó là nàng thực hiện cũng hệt như thế ngay. Mình
ra hiệu với nàng bằng tay, nàng cũng đáp như vậy;
mình mấp máy môi như đang nói chuyện với nàng và
nàng bắt chước ngay lập tức. Mình vuốt
mái tóc lại đằng sau gáy và nàng cũng đưa tay lên trán tức
thì. Những điều đó có vẻ hoàn toàn như con trẻ
vậy, thế là cả hai bọn mình đều cười,
mà chỉ khẽ mỉm cười, còn mình cũng
có cảm giác mình cũng mỉm cười y hệt như
thế.
Song tất thảy những điều
đó tuyệt không đếm mức mù quáng, ngốc nghếch
như đã có vẻ là vậy. Đó không phải là một sự
bắt chước nhau một cách đơn thuần vì nếu
vậy thì cả hai chúng mình sẽ mau chán lắm.
Không, ở đây sức mạnh ái tình cùa các ý nghĩ
giữ một vai trò tích cực. Sự thể là
Clarimoda tức thời bắt chước cử động dù
chỉ nhỏ nhoi nhất của mình: khi nàng vừa
nhìn thấy điều mình làm thì nàng làm điều
đó ngay tắp lự; đôi khi mình mường tượng thấy
toàn bộ các cử động của nàng trùng đồng thời
với các cử động của mình. Chính điều đó
đã khiến mình thán phục vì mình luôn
luôn thực hiện những gì mới mẻ, không lường
trước, bởi vậy có thể thực sự sửng
sốt khi thấy nàng nắm bắt tất cả thực
nhanh. Đôi khi mình bỗng nảy ý định làm cho
nàng bối rối. Mình làm vài cử động liên tiếp
nhau, sau đó lặp lai lần nữa và lần nữa. Cuối
cùng, đến lần thứ tư mình vẫn làm cùng điều
đó nhưng theo trình tự khác hay cố ý bỏ sót một
động tác nào đó và làm một cử động mới thay
vào.
Việc đó tựa hồ trò
chơi của trẻ con "Đàn chim bay". Và thực khó lòng
tin được khi thấy Clarimoda không khi nào nhầm hết, mặc
dù mình thực hiện các cử động ấy nhanh đến
mức dường như không thể nào nắm bắt ngay được
những cử động đó.
Suốt nhiều ngày trôi qua như thế.
Nhưng chưa bao giờ mình có cảm nghĩ đang tiêu phí thì
giờ, ngược lại, mình có cảm giác chưa bao giờ
lại làm một công việc quan trọng hơn thế.
Thứ Tư, ngày Mười sáu tháng Ba.
Liệu có lạ lùng hay
không khi mình chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ chuyển
những mối quan hệ của mình với Clarimoda
sang một cơ sở thực tế hơn chứ không chỉ
giới hạn bằng tró chơi này? Đêm qua mình nghĩ
lâu về điều này. Vì mình chỉ cần đội
mũ, mặc áo bành tô rời tầng hai xuống đất.
Chỉ cần đi năm bước qua phố và sau đó lại leo
thang gác lên tầng hai. Trên cửa ra vào dĩ nhiên có treo tấm
biển nhỏ có đề chữ "Clarimoda". Chà, cái
tên Clarimoda, và sau đó là gì nữa? Mình không biết
phải làm chính điều gì nữa, nhưng tên nàng Clarimoda
được viết trên tấm biển cơ mà. Sau đó mình gõ
cửa và...
Mình hình dung tất cả
những điều ấy hoàn toàn rõ ràng, mình tưởng
tượng thật rành rẽ, rõ ràng từng cử chỉ
nhỏ nhất mà mình sẽ thực hiện. Thế
nhưng mình không tài nào hình dung được điều gì
sẽ xảy ra sau đó. Cánh cửa ra vào mở ra, điều
này mình có thể tưởng tượng được. Nhưng mình
dừng lại trước cửa và nhìn sâu vào bóng tối
nơi mà mình không tài nào nhận thấy cái gì cả.
Nàng không xuất hiện vì mình chẳng thấy
gì hết, vả lại, nói chung thì ở đó chẳng
có gì cả. Mình chỉ nhìn thấy bóng tối
đen kịt.
Đôi khi mình có ý nghĩ rằng
có lẽ chỉ tồn tại có nàng Clarimoda người mà mình
nom thấy ở đó bên cửa sổ và đang cùng tham gia trò
chơi với mình. Thậm chí mình không thể hình
dung người đàn bà ấy sẽ có dáng
vẻ thế nào khi đội mũ hoặc vận chiếc
áo váy khác chứ không phải bộ áo váy điểm các chấm
màu tím nhạt; mình không tài nào tưởng tượng được
ra nàng khi chẳng có đôi găng tay màu đen ấy. Nếu như mình
có gặp nàng ngoài phố hay khi nàng đang ăn hay uống trong
tiệm, hoặc đơn thuần khi nàng đang tán gẫu, không, thậm
chí nghĩ đến điều đó cũng thật nực cười
rồi, mình không thể hình dung bức tranh ấy
đến mức như vậy được.
Thảng hoặc mình tự hỏi
xem mình có yêu nàng không. Mình không thể trả lời
điều này được vì mình đã được yêu bao
giờ đâu. Nhưng nếu cái tình cảm mà mình đang
trải nghiệm với Clarimoda thực tế là tình
yêu thì đây là cái gì đó hoàn toàn khác những gì mình
đã biết nơi bạn bè hay mình đã đọc
trong tiểu thuyết.
Mình quả là khó hiểu rõ
những cảm giác của chính mình. Nói chung là khó suy
nghĩ về một lý do gì đấy không liên quan
trực tiếp đến Clarimoda, hay đúng hơn, đến trò
chơi của bọn mình. Bởi không thể phủ nhận
rằng thực chất trò chơi này là choán hết tâm
khảm mình chứ không phải điểu gì khác.
Và dù thế nào đi chăng nữa, mình hiểu ra cái lý
do ấy.
Ôi nàng Clarimoda... Ôi chao, tất nhiên
nàng quyến rũ mình phải khao khát nàng. Nhưng có một
cảm giác khác hòa lẫn với điều đó, dường
như mình sợ hãi một điều gì đấy.
Mình sợ chăng? Không, không phải thế, đó có thể
là sự ngượng ngùng, với mình thì nỗi hoảng
sợ mơ hồ trước một cái gì đó vẫn chưa hề
rõ rệt. Nhưng chính cái nỗi hoảng sợ ấy
lại là cái gì đó đè nén, một cảm giác
gì đấy ngọt ngào, nhưng nó không cho phép mình tiếp
cận nàng. Mình cảm thấy dường như mình
đang chạy quanh nàng trong một cái vòng rộng, thỉnh
thoảng đến gần nàng, sau đó lại chạy xa khỏi
nàng. lao tới một nơi khác, lại tới gần và lại
chạy xa. Nhưng rốt cuộc, mình tin chắc như vậy,
muốn gì thì gì mình cũng chẳng hề
tiếp cận được với nàng.
Clarimoda ngồi bên cửa sổ và
xe chỉ. Nàng xe những sợi chỉ dài, mảnh, mảnh
vô cùng.
Từ những sợi chỉ ấy
nàng sẽ dệt nên tấm vải. Không biết cái gì
sẽ được làm nên từ vải đó. Mình thậm chí
không hiểu làm sao nàng có thể dệt được vải từ
những sợi chỉ mỏng mảnh êm ái đó mà không làm rối
tung và làm đứt. Trên tấm vải nàng dệt sẽ có những
hoa văn kỳ ảo, những con thú cổ tích và những
khuôn mặt kỳ lạ.
Ồ; mình đang viết gì
nhỉ? Thì đúng là mình cũng không thấy nàng
đang xe cái gì vì những sợi chỉ của
nàng quá mỏng mảnh. Tuy nhiên mình cảm nhận rằng
công việc của nàng chính là việc mà mình đang hình
dung khi mình nhắm mắt lại. Chính là công việc
đó. Một cái lưới lớn với nhiều hình nơi ấy:
những con thú cổ tích với bao khuôn mặt thực kỳ
lạ.
Thứ Năm, ngày Mười bảy tháng
Ba.
Mình có một trạng thái lạ
lùng. Hầu như mình chẳng nói chuyện với ai, thậm
chí cả với bà Dubonnais nữa, với người hấu
phòng thì mình chỉ chào hỏi qua loa. Ngay thời
gian dành để ăn cũng phải dè xẻn vì mình
chỉ muốn ngồi bên cửa sổ và tiếp tục
trò chơi với nàng. Trò chơi đó gây hưng phấn, thực
vậy, nó kích thích mình.
Và lúc nào mình cũng có cảm
giác dường như ngày mai phải có một điều gì đó
sẽ xảy ra.
Thứ Sáu, ngày Mười tám tháng Ba.
Đúng, đúng, hôm nay phải xảy ra một
cái gì đó. Mình tự nhắc lại thật to để
nghe thấy giọng nói của mình. Mình tự
nhủ rằng mình ở đây chỉ là vì việc
đó. Nhưng sự thể tồi tệ hơn cả là việc mình
thấy hoảng sợ. Đó là nỗi sợ cái điều có
thể xảy ra với mình chính là những gì đã
xảy đến với những kẻ xấu số ở
đây từ trước tại căn phòng này, nó hòa trộn
với nỗi kinh sợ trước nàng Clarimoda. Mình
không thể tách biệt được nỗi sợ này với nỗi
sợ kia nữa.
Mình thấy hoảng hốt,
mình những muốn kêu lên.
Sáu giờ chiều.
Lúc đầu là đôi lời, sau đó mình
sẽ cầm lấy mũ và áo bành tô.
Khi đồng hồ điểm năm giờ,
sức lực mình đã cạn. Ồ;, giờ đây
mình biết rõ là có một điều đặc biệt
nào đó vào sáu giờ của ngày trước ngày cuối trong tuần.
Bây giờ mình đã không còn cười nhạo
cái câu chuyện đùa cợt mà mình đã
nghĩ ra để phỉnh ngài chánh cẩm nữa. Mình
ngồi trong ghế bành và hết sức bình sinh cố
gắng không rời khỏi ghế. Nhưng mình bị
thu hút, bị giật ra tới cửa sổ. Mình muốn
được chơi đùa với Clarimoda bằng
bất kỳ giá nào, nhưng nỗi kinh hoàng trước cái cửa
sổ đã len lỏi tới. Mình cũng thấy
người Thụy Sỹ, vóc dáng to lớn với cái cổ
mập béo và chòm râu bạc. Mình cũng thấy
tay nghệ sĩ dáng cân đối và ông trung sĩ vạm vỡ,
khỏe mạnh. Mình đã nom thấy cả ba người,
người này tiếp sau người kia treo cổ trên cửa sổ
dưới chính cái móc kia, mồm họ há hốc và những
cái lưỡi thè dài ra. Rồi sau đó mình cũng nhìn
thấy chính mình bên cạnh họ.
Ôi, thật kinh khủng! Mình
cảm thấy nỗi kinh hoàng choáng ngợp trước cái
thanh ngang cửa sổ và cái móc ghê khiếp kia cũng như
trước nàng Clarimoda. Nàng hãy tha thứ cho mình,
nhưng mọi sự là như thế, trong nỗi kinh hoàng khốn
khổ của mình lúc nào hình ảnh nàng cũng
lên đến cùng với hình ảnh ba con người bất
hạnh bị chết treo, chân họ thõng quệt xuống
sàn.
Sự thật là chẳng có khoảnh
khắc nào lại xuất hiện sự mong muốn tự
treo cổ nơi mình cả; vì thế nên mình
không sợ mình sẽ làm điều đó. Không, đơn thuần
là mình sợ một cái gì đó khủng khiếp,
vô định mà chắc phải xảy ra. Nơi mình có một
nỗi ước mong khát khao khó cưỡng được là đứng dậy và tiến
lại chổ cửa sổ bất chấp tất cả.
Và chính mình đã muốn làm điều đó...
Vừa khi ấy điện thoại
réo vang. Mình nhấc ống nghe, và chẳng hề nghe
thấy những gì người ta nói, mình liền
kêu to: "Xin hãy đến ngay! Đến ngay bây giờ!".
Dường như tiếng kêu thất
thanh ấy đã xua tan mọi bóng đen khủng khiếp
trong mình ở một khoảnh khắc. Mình thấy
yên tâm trong một phút giây ngắn ngủi. Mình lau mồ
hôi rịn ra trên trán và uống hết cốc nước, đoạn
bắt đầu suy tính xem cần nói gì với ngài chánh
cẩm khi ông ta tới. Cuối cùng mình lại cửa
sổ, gật đầu và mỉm cười.
Cả Clarimoda cũng gật đầu
đáp lại. Năm phút sau ngài chánh cẩm đã có mặt trong
phòng. Mình bảo ông ta rằng đã dò ra
được dấu vết đích thực. Nhưng hôm nay ông phải
chiều mình đừng gặn hỏi gì hết, mình
sẽ kể ông ấy nghe vào thời gian gần nhất.
Cái dáng tức cười nhất là ở chổ khi mình
bịa ra điều đó thì mình đã tin tưởng
chắc chắn là mình nói sự thật. Và bây giờ
đây thì có lẽ mình thấy điều đó là trái với
lương tâm mình.
Hoàn toàn có thể ông ta đã nhận
ra trạng thái tâm thần lạ lùng của mình, và đặc biệt khi mình
thấy khó khăn trong việc giải thích tiếng kêu trong
điện thoại và toan tính một cách phí công muốn thoát
ra khỏi cảnh huống khó khăn này. Ông ta chỉ nói với
mình rất nhả nhặn để mình không bối
rối trước ông ta vì ông hoàn toàn phục tùng mình,
bổn phận của ông ta là như thế. Ông ta cứ đến
một cách vô ích mười hai lần thì tốt hơn là cứ
bắt mình phải đợi khi ông thấy có nhu cầu
cần đến. Sau đó ông ta mời mình đi cùng ông vào buổi
tối hôm ấy để nguôi ngoai đi phần nào vì cứ
ở một mình lâu trong phòng thì chẳng
khỏe khoắn chút nào. Mình nhận lời mời của
ông mặc dù mình thấy điều này là rất khó chịu,
thế là mình chẳng thích thú gì phải chia tay
với căn phòng mình bây giờ.
Thứ Bảy, ngày Mười chín
tháng Ba.
Mình và ngài chánh cẩm đã
ghé quán "Gaite Rochehouart", sau đó đến "Cigale"
và "Lune Rousse". Ngài chành cẩm nói đúng: với mình
quả thật rất có ích khi được ra hít bầu không
khí trong lành và mới mẻ. Lúc đầu mình có cảm
giác khó chịu, dường như mình là một kẻ đào ngũ, trốn chạy
là cái cớ của mình. Nhưng rồi sau đó cái cãm
giác đó trôi qua: ngài chánh cẩm và mình đã uống
nhiều, cười rồi tán gẫu.
Sáng nay khi bước tới cửa sổ,
mình nhìn thấy Clarimoda và mường tượng rằng
mình đã đọc được sự trách móc trong cái nhìn
của nàng. Nhưng có thể đó là sự tưởng tượng của
mình thôi vì thực ra làm sao nàng biết được
việc mình chiều qua đi vắng? Vả lại mình
chỉ cảm nhận thấy điều đó trong một khoảnh
khắc, rồi sau đó lại nhận ra nụ cười nơi
nàng.
Bọn mình đã theo cuộc
chơi cả ngày.
Chủ nhật, ngày Hai mươi tháng Ba.
Chỉ có hôm nay mình mới viết
được vì bọn mình chơi suốt ngày hôm qua.
Thứ Hai, ngày Hai mươi mốt tháng
Ba.
Hai đứa mình chơi cả ngày.
Thứ Ba, ngày Hai mươi hai tháng Ba.
Vâng, hôm nay bọn mình vẫn
tiếp tục việc thường ngày. Không có gì khác cả.
Đôi khi mình tự hỏi: thực sự mình đang
làm điều đó để làm gì? Hoặc: điều này sẽ
dẫn đến cái gì, bằng việc ấy mình
muốn đạt được điều gì đây? Nhưng chưa có khi
nào mình trả lời những câu hỏi ấy bởi
vì mình không hề muốn gì khác ngoài chỉ
một điều mà thôi. Và điều phải xảy
ra chính là cái mà mình đang khao khát.
Vào những ngày khi bọn mình
nói chuyện với nhau, tất nhiên không hề phát âm một
lời nào cả. Đôi khi hai đứa mấp máy môi, nhưng phần
lớn thời gian bọn mình chỉ nhìn ngắm
nhau. Nhưng cả hai đứa rất hiểu nhau.
Mình đã đúng: Clarimoda đã
quở trách vì việc mình bỏ đi vào thứ
Sáu tuần trước. Thế là mình xin lỗi và bảo
rằng về phía mình như thế thật ngốc nghếch
và tồi tệ. Nàng tha lỗi và mình hứa sẽ
không đi chơi vào thứ Sáu tới nữa. Rồi bọn mình
hôn nhau, áp chặt đôi môi vào cửa kính.
Thứ Tư, ngày Hai mươi ba
tháng Ba.
Giờ đây mình đã hiểu
là mình đang yêu nàng. Đúng, đúng là như vậy vì mình
đã phải lòng nàng say đắm. Cứ để cho mọi
người khác nghĩ tình yêu phải là cái gì khác
hơn thế cơ. Nhưng chẳng lẽ lại có một cái đầu,
một cái tai, một cánh tay lại giống hệt nhau ở
hàng nghìn người chăng? Tất thảy mọi người
đều khác nhau, bởi vậy tình yêu cũng luôn luôn
chẳng giống nhau ở từng người. Thật ra mình
biết tình yêu của mình hoàn toàn đặc biệt.
Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà cuộc tình này
kém nồng cháy và tươi đẹp hơn sao? Mình hầu như hoàn
toàn hạnh phúc trong tình yêu của mình.
Giá như chẳng có nỗi kinh sợ
như thế! Đôi khi nỗi sợ ấy ngủ thiếp đi
và lúc đó mình quên nó đi. nhưng điều này diễn ra chỉ
vài phút thôi, sau đó nỗi sợ lại bừng tỉnh
trong mình như một con chuột nhắt đáng thương đang
tranh đấu với con rắn đẹp đẽ to lớn nhằm
thoát ra một cách vô vọng khỏi những cái vòng
quấn chặt chẽ. Bày hỡi nỗi sợ nhỏ
nhoi ngu xuẩn kia, mi hãy cứ đợi, chẳng bao
lâu tình yêu vĩ đại sẽ nuốt chửng mi.
Thứ Năm, ngày Hai mươi bốn tháng
Ba.
Mình vừa có một phát hiện;không
phải mình đang chơi với Clarimonda mà nàng đang chơi với
mình.
Phát hiện đó nảy sinh thế
này.
Hôm qua mình cứ nghĩ như mọi
khi về cuộc chơi của bọn mình. Và mình
đã viết ra năm loạt cử động mới khác
nhau mà mình dự định dùng để khiến nàng ngạc
nhiên vào hôm sau, mỗi động tác được đánh số nhất
định. Mình đã luyện tập các cử động
này để sau đó thực hiện nhanh hơn, lúc đầu sẽ
theo trình tự thuận, sau đó sẽ theo trật tự
ngược lại. việc làm đó rất khó, nhưng nó đem tới
cho mình một nỗi khoan khoái cực lớn, điều
này tựa hồ đã làm cho mình gần gũi với
Clarimonda thậm chí cả vào những giây phút mình
không nhìn thấy nàng. Mình luyện các động tác
đó suốt nhiều giờ, cuối cùng mọi sự đã
thuần thục như cháo chảy.
Và sáng nay mình đến gần cửa
sổ. Bọn mình chào nhau và sau đó trò chơi bắt
đầu. Thực là khó tin khi thấy nàng hiểu mình
thật nhanh và bắt chước mình ngay lập tức.
Vào phút ấy có ai gõ cửa;
đó là người hầu phòng mang đôi ủng vào cho mình.
Sau khi nhận đôi ủng và trở lại chổ cửa sổ,
mình ngẫu nhiên nhìn vào tờ giấy ghi các động
tác mình đã luyện tập. Và ngay khi ấy mình
đã hiểu rằng khi nãy đứng trước cửa
sổ mình chẳng thực hiện bất kỳ động
tác đã ghi nào hết.
Mình lảo đảo, vịn tay
vào lưng ghế bành và thả mình xuống ghế. Mình
không tin là như vậy, thế là mình lại nhìn
vào những dòng ghi trên tờ giấy. Nhưng đó là sự
thật: ban nạy, trước cửa sổ mình đã
thực hiện cả loạt động tác, nhưng không có động
tác nào là của mình hết.
Và nơi mình lại xuất hiện
cái cảm giác ấy: cánh cửa, cánh cửa phòng nàng
mở rộng. Mình đứng trước cánh cửa mở
toang và nhìn: chẳng nhìn thấy gì hết
trừ bóng tối mịt mùng dày đặc. Khi ấy mình
đã thấy rõ một điều: nếu bây giờ
mình bỏ đi thì sẽ được cứu thoát; và mình
cảm thấy giờ đây mình có thể ra đi được.
Paris đã tỏ ra mạnh hơn
nàng Clarimonda trong một khoảnh khắc.
Chà, giờ đây mình hoàn toàn chẳng
nghĩ gì về điều đó nữa. Lúc này mình chỉ
cảm nhận độc tình yêu của mình và nỗi
sợ êm đềm sung sướng với nàng.
Nhưng vào thời khắc ấy, nỗi
sợ này đã tiếp thêm cho mình sức mạnh.
Mình đọc lại lần nữa bản ghi chép các động
tác và cố gắng ghi nhớ chúng. Sau đó mình lại
gần cửa sổ.
Giờ mình hoàn toàn hiểu rõ:
mình đã không làm một động tác nào trong số
những gì mình muốn làm.
Khi ấy mình quyết định
lấy ngón tay trỏ để xoa mũi nhưng mình lại
hôn cửa kính thay vì điều đó. Mình muốn gõ
vào kính nhưng thay vì làm thế mình lại dùng tay
xoa mái tóc. Vậy giờ đây mình đã thấy rõ:
không phải Clarimonda bắt chước cái mình làm, mà ngược
lại, mình bắt chước nàng. Và mình thực
hiện những cái đó nhanh như chớp đến nỗi mình
có ấn tượng dường như quyền chủ động xuất
phát từ chính mình.
Còn mình vốn tự hào
là có ảnh hưởng tới nàng, thì ngược lại
mình lại chịu ảnh hưởng của nàng. Tuy
nhiên, ảnh hưởng đó êm ái và trìu mến đến mức
mình đã suy nghĩ rằng trên thế gian này chẳng
có gì tốt đẹp như thế.
Mình còn tiến hành vài thử
nghiệm nữa. Mình đút cả hai tay vào hai túi quần
và quyết tâm không cử động; mình đứng và chăm
chú dõi theo nàng. Mình thấy nàng giơ tay lên, nàng cười
và nhẹ nhẹ dứ ngón tay trỏ dọa mình. Mình
không động đậy. Mình cảm thấy tay phải cứ
muốn thoát ra khỏi túi quần, nhưng mình áp chặt
các ngón tay vào lớp vải lót. Sau đấy chầm chậm,
chầm chậm sau vài phút, các ngón tay rời ra, thế là mình
rút tay ra khỏi túi và giơ lên. Rồi mình mỉm cười
và cũng dứ ngón tay dọa nàng. Mình cảm thấy
không phải mình làm điều đó mà là một kẻ nào
khác, cái kẻ mà mình đang theo dõi. Không, không, không
phải là như vậy. Chính mình, mình đã làm việc
đó, còn kẻ nào khác kia chính là gã đầy sức mạnh
đã mong muốn có một phát hiện vĩ đại,
nhưng đó không phải là mình đâu.
Mình, mình có thiết
gì những phát hiện như thế đâu, mình ở
đây là để làm theo ý chí của
nàng Clarimonda, người mà mình đang yêu trong nỗi sợ
ngọt ngào.
Thứ Sáu, ngày Hai mươi lăm tháng Ba.
Mình đã cắt đứt dây
điện thoại. Mình không muốn ngài chánh cẩm xuẩn
ngốc ấy quấy rầy mình bất cứ phút
nào, vả lại mình làm việc đó vào đúng cái lúc giờ
khắc khủng khiếp đó đã đến.
Trời ơi, mình viết tất
cả những điều này để làm gì chứ? Trong
toàn bộ những điều đó không có lời nào là sự thật.
Mình có cảm giác như ai đó điều khiển cây bút của
mình.
Nhưng mình muốn, rất muốn
ghi lại những gì đang xảy ra với mình.
Để làm được điều này mình phải hết sức
tập trung ý chí. Nhưng mình sẽ làm được việc
đó. Chỉ còn có một lần để làm điều mà mình
mong muốn...
Mình đã cắt đứt dây
điện thoại... chà! Mình đã phải làm việc
đó! Thế đấy! Cuối cùng đã xong!Vì mình
phải, phải làm.
Hôm nay hai đứa đứng bên cửa
sổ và chơi. Từ ngày hôm qua cuộc chơi của bọn mình
đã thay đổi tính chất. Nàng thực hiện một
cử động nào đó, còn mình cưỡng lại đến
chừng nào có thể được. Nàng thực hiện một
cử động nào đó, còn mình cưỡng lại đến
chừng nào có thể được. Hiện thời mình
không chịu thua vẻ yếu ớt không tuân phục những
gì mà nàng muốn. Và mình không thể diễn tả
được cái niềm hoan lạc đến thế nào khi nhận
thức mình đã thua, đã chiến bại, cái
niềm hạnh phúc đến thế nào khi mình phài tòng
phục ý chí của nàng.
Bọn mình đã tiếp tục
cuộc chơi. Sau đó bỗng nhiên nàng đứng dậy và đi sâu trong phòng. Phòng
nàng tối đến nỗi mình không còn nom thấy
nàng nữa, dường như nàng đã tan ra trong bóng tối.
Nhưng sau đó nàng lại xuất hiện bên cửa sổ,
trong tay giữ một cái máy điện thoại để bàn
hoàn toàn giống cái điện thoại đặt trong phòng
mình. Nàng mỉm cười để cái điện thoại
trên bậu cửa, đoạn lấy con dao và cắt đứt
sợi dây và lại cất điện thoại đi.
Mình đã cưỡng lại
nàng suốt mười lăm phút. Nỗi sợ của mình
nặng hơn trước đây, nhưng chính thế khiến cho việc
cảm nhận mình bị lệ thuộc, chèn ép trở
nên ngọt ngào hơn nữa. Cuối cùng, mình lấy cái
máy điện thoại ra, đặt nó lên cửa sổ, cắt
đứt dây nối và lại để nó lên bàn.
Điều đó đã xảy ra như vậy.
Mình ngồi sau bàn viết, mình
uống ly trà, người hầ phòng vừa mang cốc
tách đi. Mình đã hỏi anh ta mấy giờ rồi
vì đồng hồ của mình chạy sai. Năm giờ
mười lăm, đúng năm giờ mười lăm.
Mình chỉ cần mình ngẩng
đầu là Clarimonda sẽ làm động tác gì đó. Nàng sẽ
làm một cử chỉ nào đó mà mình cũng sẽ phải
làm theo.
Và dẫu sao mình cũng đã
ngẩng đầu lên. Nàng đứng nơi cửa sổ và cười.
Bây giờ, giá như mình có thể ngoảnh mặt đi, giờ
nàng đã tiến lại gần cái rèm cửa sổ.
Nàng tháo sợi dây, sợi dây màu đỏ giống hệt sợi
dây rèm cửa sổ phòng mình. Nàng quấn thành
cái thòng lọng. Nàng quấn sợi dây vào cái móc trên
thanh ngang cửa.
Sau đó nàng mỉm cười và ngồi
xuống.
Không, cái mà mình cảm nhận
không phải là nỗi sợ. Đó là nỗi kinh hoàng lạnh
lùng, tê tái mà dẫu sao mình sẽ chẳng đồng ý
đổi lấy bất cứ cái gì trên thế gian này.
Ấy là một sự nô dịch, cưỡng ép kỳ lạ
nào đó, nhưng đồng thời trong nỗi kinh hoàng không gì
chế ngự được ấy tiềm tàng một khoái cảm
vô cùng độc đáo.
Mình rất có thể chạy
lại gần cửa sổ và làm ngay cái mà nàng muốn,
nhưng mình chờ đợi vì trong tâm khảm mình
đang diễn ra cuộc tranh đấu, mình đang cưỡng lại.
Mình cảm thấy từng phút một trôi qua là cái sức
mạnh kia càng trở nên không thể cưỡng chống được
mạnh hơn nữa.
Ồ;, giờ đây mình lại
ngồi bên bàn. Mình đã nhanh chóng chạy lại cửa
sổ và thực hiện cái điều mà nàng mong đợi ở
mình: lấy sợi dây ra, làm một cái thòng lọng
và treo nó lên móc.
Bây giờ mình sẽ không đứng
dậy nữa, bây giờ mình sẽ chỉ nhìn
xuống tờ giấy thôi. Mình hiểu rõ việc
nàng sẽ làm nếu mình chỉ cần nhìn vào
nàng vào giờ thứ sáu ngày trước ngày cuối cùng trong
tuần đó. Nếu mình nhìn nàng thì mình
sẽ phải làm theo điều nàng muốn, khi đó mình sẽ
phải...
Mình sẽ không nhìn nàng.
Lúc này mình cất tiếng cười
vang. Không, mình không cười, ấy là cái gì đó trong
con người mình cất tiếng cười. Mình biết
cười cái gì: nó cười nhạo cái "mình
không muốn" của chính mình.
Mình không muốn, nhưng dù sao có
lẽ cũng biết là phải làm việc đó. Nhưng
mình phải nhìn nàng, phải, phải làm việc
ấy... và sau đó là những gì còn lại.
Mình chỉ chờ đợi để
kéo dài nỗi cực hình đau đớn, những nỗi
đau khổ mà vì nó mình nín thở, mà đồng thời đem lại
khoái lạc vô biên. Mình viết và cứ viết để
ngồi lâu hơn bên bàn, để kéo dài những thời khắc
đau khổ này, những nỗi thống khổ làm gia tăng hạnh
phúc tình yêu của mình đến vô tận...
Thêm chút nữa, còn chút nữa...
Lại nỗi kinh sợ ấy, lại
lần nữa! Mình biết mình sẽ nhìn
nàng, sẽ đứng dậy, sẽ đưa cổ vào cái
thòng lọng, nhưng mình sợ không phải điều
đó. Ồ; không, điều đó thật đẹp đẽ, điều
đó thật tuyệt vời.
Nhưng có một cái gì đó, cái
gì đó khác lạ... cái đều đó sẽ xảy ra sau đó.
Mình không biết đó là điều gì, nhưng chắc
chắn sẽ xảy ra bởi vì hạnh pháu của
những nỗi đau nơi mình thật vô cùng vĩ đại.
Phải, mình có cảm giác, cảm giác là tiếp theo
sau chuyện này sẽ xảy ra một cái gì đó thật
khủng khiếp.
Chỉ cốt sao đừng nghĩ đến...
Phải viết ra bất cứ
cái gì nảy ra trong đầu, cho dù là gì cũng được.
Chỉ cần nhanh hơn nữa, không cần suy nghĩ...
Tên của mình là Richard Brakemon,
Richard Brakemon, Richard... Trời, mình không thể viết
hơn... Richard Brakemon... Richard Brakemon... bây giờ... bây giờ...
mình phải nhìn nàng đã... Richard Brakemon...
mình phải... chưa... Richard... Richard Brake...
Ngài chánh cẩm khu vực số
chín đã không thể nghe được tiếng đáp lại sau
nhiều lần ông ta quay số gọi điện thoại.
Thế là ngài tới khách sạn "Stevence" lúc sáu gời
năm phút. Trong căn phòng số bảy ông nhìn thấy
chàng sinh viên Richard Brakemon đã chết treo dưới thanh
ngang cửa sổ hoàn toàn giống như cái cảnh huống
của ba kẻ xấu số trước đây đã thắt
cổ tự vẫn trong căn phòng này.
Chỉ có điều là trên khuôn mặt
chàng đọng lại cái vẻ mặt khác: nét mặt chàng bị
biến dạng méo mó với một nỗi kinh hoàng, hai mắt
chàng mở to trừng trừng và hầu như lồi ra hố
mắt. Đôi môi chàng tòe ra, nhưng hai hàm răng chàng cắn chặt
vào nhau.
Và giữa hai hàm răng ngậm chặt
ấy là một con nhện đen to kềnh với những
nốt lấm chấm màu tím nhạt lạ lùng bị xiết
bẹp.
Trên bàn là cuốn nhật ký của
chàng sinh viên. Ngài chánh cẩm đã đọc tất cả
và sau đó lần xuống gác đi sang ngôi nhà bên dãy đối
diện. Ở đó ngài chánh cẩm đã xác nhận rằng
suốt vài tháng nay tầng hai ngôi nhà đó trống không chẳng
một ai ở trọ cả.
Các tập khác :
1|2|3|4|5|6|7|8|9|10|11|12|13|14|15|16|17|18|19|20
|