Đầm Lầy Trăng
Tôi không biết giờ đây
Dennis Barry đang ở đâu, ở cái nơi xa thẳm khôn cùng và ảm
đạm nào? Vào cái đêm khi chàng còn sống với mọi
người lần cuối cùng, tôi cách chỗ chàng không xa và
nghe thấy tiếng người ta đến bắt chàng đi, cùng
những tiếng kêu xé lòng xé ruột của chàng.
Nông dân và cảnh sát hạt Meath không tìm thấy cả
Barry lẫn những người khác, mặc dầu họ đã
kiên nhẫn sục sạo mọi nơi, mọi chốn. Còn
tôi, sau tất cả những chuyện đã xảy ra,
cứ mỗi khi nghe tiếng động ộp oạp của
lũ ếch nhái đầm lầy vang tới hoặc bỗng
nhiên tôi lạc tới một vùng đầy ánh trăng ở một
chốn đồng không mông quạnh nào là bất giác tôi lại
thấy khắp người nổi gai ốc vì sợ hãi.
Quen thân với Dennis Barry từ khi
còn ở đất Mỹ, nơi chàng đã phất lên
giàu có, nên tôi rất vui khi biết chàng đã chuộc lại
tòa lâu đài của dòng tộc
mình tại vùng đầm lầy hoang vắng Kilderry.
Chính đó là nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, và chàng những
muốn được tận hưởng những thành quả giàu
có của mình giữa những bức tường thân
thuộc của cha ông. Thuở xưa, tổ tiên chàng sở hữu
xứ Kilderry, tại đây họ đã xây cất một tòa
lâu đài và sống hạnh phúc
trong tòa lâu đài ấy, nhưng nay tất
thảy những điều đó đã trở thành quá khứ
xa xăm. Đã bao tháng trôi qua kể từ khi tòa lâu đài trở nên hoang phế
hoàn toàn. Sau khi trở về Ireland, Barry thường gửi
thư cho tôi và kể chuyện việc quần thể kiến
trúc cổ kính đó được tái sinh dần dần, hết ngọn
tháp này đến ngọn tháp khác. Và sau bao thế kỷ những
bức tường lâu đài lại được trang trí
lại đẹp đẽ như xưa, còn nông dân thì không ngớt
lời ca ngợi và tỏ lòng biết ơn chàng đã
bỏ vốn đầu tư cho sự thịnh vượng của
chốn quê hương. Nhưng sau đó mọi việc đã thay đổi,
đám nông phu thôi không ca ngợi ông bạn tôi nữa, mà trái lại,
họ bắt đầu tìm cách tránh xa chàng như tránh xa kẻ
mang bệnh dịch hạch. Chính lúc đó Dennis đã viết
thư cho tôi, yêu cầu tôi tới thăm vì chàng rất cô
đơn trong tòa lâu đài, thậm chí chẳng
có ai để mà nói chuyện nữa, ngoại trừ những
người giúp việc và đám gia nhân chàng thuê từ
miền bắc xuống.
Khi tôi đến nơi, Barry kể cho tôi
hay rằng nguyên do mọi chuyện là ở những đầm
lầy bên cạnh. Tôi đến Kilderry lúc hoàng hôn, ánh mặt
trời lúc chiều tà vẫn thếp vàng lên các ngọn đồi
xanh và những cánh rừng, cũng như lên màu lục của
khu đầm lầy. Nó chiếu sáng cả những phế
tích cổ kính kỳ lạ trên hòn đảo nhỏ xa
xa. Cảnh hoàng hôn thật đẹp, song nông dân ở Ballylow
đã kịp phần nào khiến tôi lưu ý đến niềm
tin của họ, khi họ quả quyết rằng
Kilderry thật đáng nguyền rủa, và tôi dè dặt liếc
nhìn những ngọn tháp nhỏ của tòa lâu đài đang ánh lên vàng rực
dưới nắng chiều. Tôi rời Ballylow bằng chiếc
ô tô do người ta sai đến đón, vì Kilderry nằm cách
đường xe lửa khá xa. Những người nông dân cố
tránh xa chiếc ô tô và người tài xế quê miền bắc,
nhưng khi thấy tôi chuẩn bị đi tới Kilderry, họ
vẫn không kìm được vào báo trước cho tôi phải
đề phòng nguy hiểm. Buổi tối, tôi đã có
mặt trong tòa lâu đài, Barry đã kể tôi
nghe mọi chuyện.
Nông dân lũ lượt rời bỏ
Kilderry chỉ vì Dennis Barry quyết định cho hút cạn
cái đầm lầy lớn. Mặc dù tình yêu quyến
luyến với xứ sở Ireland quê hương thật sâu đậm
nhưng những lề thói quen thực dụng Mỹ đã
ăn sâu bám rễ trong con người Barry, bởi thế chàng
không chịu được với ý nghĩ để cho mảnh
đất màu mỡ kia bỏ phí dưới làn nước đầm lầy,
bời đó chính là đầm than bùn và đất dưới nó còn
có thể được sử dụng một cách không ngoan để
sinh lợi nữa chứ. Chàng bỏ ngoài tai tất cả
những câu chuyện truyền thuyết và những lời
đồn đại mê tín gắn với khu đầm lầy. Chàng
chỉ thấy tức cười khi lúc đầu, nông dân chối
từ tham gia công việc, rồi sau đó khi thấy sự
bướng bỉnh của chàng, họ bắt đầu nguyền
rủa ông chủ của mình và bỏ đi tới
Ballylow, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất.
Thấy vậy Barry bèn tuyển những người thợ
từ miền bắc về, và khi cả đầy tớ
gia nhân cũng bỏ tòa lâu đài ra đi, thì chàng lại
phải thuê những người mới. Giờ đây xung quanh
chàng toàn những kẻ xa lạ, bởi thế chàng thấy
cô đơn và đã mời tôi về
sống với chàng.
Sau khi nghe kể chi tiết chuyệc
dân cư ở Kilderry sợ hãi điều gì, tôi cũng
cả cười cùng ông bạn mình: hóa ra những mối
e sợ của họ liên quan tới điều mê tín về
vùng đầm lầy và kẻ canh giữ cau có nơi đây mà linh hồn
của nó dường như sống ở chính trong đám phế
tích cổ kính nhất mà tôi đã trông thấy lúc hoàng hôn
là những mối lo sợ vớ vẫn. Người ta cũng
truyền tụng những lời đồn đại về những
tia lửa ma trơi nhảy múa trong bóng tối, về những
cơn gió lạnh như băng giá lúc vào đêm hè nóng nực, về những
bóng ma bận xiêm y trắng lơ lửng trên mặt nước
và về những thành phố đá được che dấu dưới
lớp bèo xanh của đầm lầy. Đám nông dân tin chắc
rằng sự trả thù đang rình rập chờ
đợi kẻ nào dám phávỡ sự yên tĩnh của vùng
này, hay toan tính hút khô cạn khu đầm lầy mênh mông. Những
nông dân nơi đây còn nói chớ nên động đến một
số điều huyền bí ở đây. Những điều huyền
bí ấy tồn tại từ thời xa xưa khi một đại
họa đã ập lên đầu con cháu của vua Partholan.
Trong cuốn "Chinh phục tùng thư" có kể rằng
những con dân xứ Hy Lạp đã chết ở
Thollat, song các cụ già ở Kilderry lại khẳng định
rằng dù sao một đô thị cuối cùng cũng đã
được cứu thoát bởi vị thần phù trì cho
nó, là nữ thần Mặt Trăng. Thần đã che giấu
đô thị ấy trong cánh rừng rậm trên các ngọn đồi
và bởi thế đã giúp tránh thoát được quân xâm lược
Nemed từ xứ sở Skif đến đây trên ba chục chiến
thuyền.
Chính những truyền thuyết ấy
đã buộc những người nông dân rời bỏ
Kilderry! Đến giờ thì tôi chẳng còn ngạc
nhiên gì nữa cái ý định của Dennis Barry
không đếm xỉa đến những lời đồn nhảm
nhí ấy. Vả lại, chính chàng cũng có mối quan tâm
sâu sắc tới thời xa xưa và chàng dự định nghiên
cứu kỹ lưỡng cẩn thận vùng này sau khi tát khô
đầm lầy. Chàng thường lui tới thăm khu phế tích
trên đảo: tuổi của nó rõ ràng rất xưa rồi.
Di tích hoang phế ấy có lối kiến trúc khác hẳn
các công trình cổ xưa khác, nhưng vì cái vẻ ngoài
tàn tạ kinh khủng của nó hiện giờ, nên khó có
thể hiểu được khu hoang tàn ấy đã từng
là như thế nào vào thời hoàng kim của nó. Mọi công việc
bơm hút khô phải bắt đầu chuẩn bị rồi, những
công nhân quê miền bắc sắp sửa dọn sạch
khu đầm lầy bí ẩn khỏi rêu và bèo mầu đỏ
nhạt, phá bỏ những con suối nhỏ đầy vỏ
ốc, vỏ hến và làm mất đi vĩnh viễn cái mặt
nước mầu xanh da trời mọc đầy lau sậy.
Sau tất thảy những biến
động trong ngày tôi đã thấy mệt và muốn đi ngủ.
Đêm khuya và tôi thấy khó khăn phải nghe Barry kể nốt
câu chuyện của mình. Một gia nhân dẫn tôi đến
căn phòng dành riêng cho tôi ở một trong những ngọn
tháp nhỏ. Qua khung cửa sổ nhìn thấy khu làng,
cánh rừng thưa bên đầm lầy và xa hơn chút nữa là đầm lầy. Dưới
ánh trăng tôi trông thấy những căn nhà chìm sâu trong giấc
ngủ, nơi đang cư ngụ những người công nhân làm thuê từ
miền bắc đến thế chỗ cho đám dân địa
phương, tôi cũng thấy ngôi nhà thờ nhỏ xíu với
cái nóc nhọn cổ kính, và phía xa sau cánh đầm than bùn ngái
ngủ thấp thoáng khu phế tích trên hòn đảo nhỏ.
Khi đang chìm vào giấc ngủ tôi bỗng nghe thấy,
hay là tôi mường tượng thấy chăng? , tiếng tiêu nhè
nhẹ yếu ớt vọng từ nơi xa, thanh âm ấy là
một giai điệu hoang sơ, nguyên thủy nào đó. Điệu nhạc
ấy khiến tôi lo lắng một cách lạ lùng khi nó đi
vào những giấc mơ của tôi. Song buổi sáng khi tỉnh
giấc, tôi hiểu tiếng nhạc đó là do mộng mị
sinh ra, những giấc mộng thật lạ kỳ mà nếu
so sánh với chúng thì ngay những âm thanh bí ẩn của
tiếng tiêu cũng trở nên mờ nhạt hẳn đi. Có
lẽ do ảnh hưởng từ những truyền thuyết
do Barry kể mà tôi mơ thấy linh hồn mình lơ lửng
trên cái đô thị hùng vĩ chìm trong đủ mọi loại
cây xanh, nơi đây là những con đường lát đá cẩm thạch,
những tòa biệt thự cùng những ngôi đền,
những pho tượng, những họa tiết điêu khắc
cùng những bài văn bia, tất cả đều nói lên sự vĩ
đại xa xưa của xứ Hy Lạp. Tôi đã cùng Barry cười
ngất trước giấc mơ đó, nhưng tiếng cười của
tôi nghe to hơn vì lúc đó ông bạn tôi đang lo lắng trước
thái độ của đám công nhân miền bắc. Đã sáu
ngày liên tiếp họ ngủ dậy rất muộn, họ
đi lại uể oải như đang ngái ngủ, và cả hôm nay
nữa họ nom như hoàn toàn chưa được nghỉ ngơi, mặc
dù đêm trước họ đều
đi nằm sớm.
Suốt cả buổi sáng tôi đi dạo
trong ngôi làng tràn ngập ánh nắng mặt trời và nói
chuyện với những người công nhân. Họ chẳng
có công việc gì đặc biệt lắm để làm vì
Barry đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cuối
cùng trước khi bắt đầu khởi sự, nhưng thâm tâm
tất cả mọi người đều thấy hồi hộp,
xao xuyến vì những giấc mơ bất an, khó hiểu
mà họ đã thấy khi sáng sớm. Tôi cũng kể
cho họ nghe về giấc mơ lúc đêm của mình, song
họ tỏ ra hờ hững khi nghe tôi kể. Chỉ mãi
tới khi tôi nhắc tới tiếng nhạc ma quái kỳ
lạ thì họ mới trở nên chăm chú: chính họ
cũng nhớ là đã nghe thấy điệu
nhạc gì tương tự.
Buổi sáng, sau bữa ăn chiều,
Barry tuyên bố rằng mọi công việc sẽ bắt
đầu sau hai ngày nữa. Tôi vui mừng khi nghe lời thông
báo đó, mặc dù trong thâm tâm thấy tiếc nuối tất
cả mọi thứ rêu và thạch thảo, mọi con suối
và những cái hồ đầm nơi đây. Nhưng cũng rất muốn
được thâm nhập vào những bí mật ấp ủ hàng
bao thế kỷ nay có thể được chất chứa
trong lòng cái đầm lầy than bùn kia. Đêm đó, tôi lại
mơ thấy tiếng tiêu réo rắt và thành phố đá cẩm
thạch, nhưng lần này giấc mơ bị ngắt đoạn
đột ngột và kinh sợ. Tôi đã nhìn thấy một
tai họa ập tới thành phố nơi thung lũng xanh
tươi ấy, một trận sụt lỡ đất đá ghê gớm
đã ào tới và chôn vùi mọi sinh vật và con người.
Chỉ duy nhất ngôi đền nữ thần Arteuris ở
trên đồi cao là không bị trận thiên tai khủng khiếp
tàn phá. Tại ngôi đền này thần Mặt Trăng, bà Kleis, đức
bà tư thế già nua đã nằm sóng sượt lạnh giá và
im lặng với chiếc mũ miện bằng ngà voi
trên mái đầu bạc.
Như tôi đã kể, giấc mơ của
tôi bị đứt quãng. Một cảm giác lo âu khó tả
cứ bám riết không rời tôi dù chỉ một khoảnh
khắc. Một lúc rất lâu tôi không hiểu tôi đang ngủ
hay tôi đang thức nữa. tiếng tiêu cứ tiếp tục
văng vẳng trong tai. Song khi nhìn thấy những vệt
ánh trăng lạnh giá trên sàn lỗ chỗ hình bóng chấn
song của khuôn cửa sổ gôtích, tôi hiểu rằng dẫu
sao mình vẫn đang trong tòa lâu đài Kilderry. Khi đâu đó đàng xa có tiếng chuông đồng
hồ điểm hết lần này đến lần khác thì
rốt cuộc tôi thấy rõ mình không ngủ.
Nhưng mọi âm thanh của tiếng tiêu vẫn tiếp tục,
ấy là một điệu nhạc lạ lùng, xa xưa, nó gợi
trí tưởng tượng tới những vũ điệu của
các vị thần Satyr ở xứ Menadus xa xôi. Nhạc điệu
ấy không cho tôi ngủ, và thế là sau khi nhỏm dậy
khỏi giường, tôi bắt đầu lo lắng đi đi lại
lại trong phòng. Hoàn toàn ngẫu nhiên tôi bước tới
khuôn cửa sổ phía bắc, nhìn về phía ngôi làng
đang ngủ mơ màng và cánh rừng thưa bên mép đầm lầy.
Tôi hoàn toàn không định nhìn qua cửa sổ vì
đang buồn ngủ chết đi được, nhưng những âm
thanh của các cây tiêu đanh thổi đã hành hạ tôi đến
nỗi buộc tôi phải tìm cách lãng quên nó đi.
Song những gì tôi trông thấy đã khiến óc tưởng
tượng của tôi phải sửng sốt.
Trên khoảng rừng thưa tràn ngập
ánh trăng đang diễn ra một cảnh tượng mà một
khi đã mục kích thì ai cũng phải ghi nhớ
đến trọn đời vì quá đỗi kinh ngạc. Dưới
tiếng tiêu vang vọng khắp trên vùng đầm lầy là
những hình dạng kỳ ảo đang chuyển động
nhịp nhàng và câm lặng trên khoảng rừng trống.
Lúc đầu họ đu đưa mình theo nhịp, nhưng dần dần
chúng đạt tới mức khoái cảm tột độ mà thời
xa xưa đã từng choán ngợp các vũ công Sicilia trình
diễn vũ điệu dâng hiến thần Demeter vào đêm
trăng rằm trước tiết thu phân ở gần thần
Kyan. Khoảng rừng thưa phơi rõ dưới ánh trăng suông
bàng bạc, những bóng ma khiêu vũ, tiếng tiêu lanh lảnh
đơn điệu, tất thảy những cái đó cùng một lúc
khiến tôi gần như bị tê liệt, song dẫu sao tôi
vẫn nhận ra rằng, một nửa những vũ
công không hề mệt mỏi ấy là những người
công nhân làm thuê mà theo sự hình dung của tôi thì
nhẽ ra họ phải đi ngủ từ lâu rồi, một
nửa còn lại là những con ma kỳ lạ bận
đồ trắng, với chút ít đầu óc tưởng tượng
thì có thể coi chúng là các nữ thần sông suối
đang sống ở những chiếc hồ nhỏ vốn
nuôi dưỡng cả khu đầm lầy. Tôi không biết đã
đứng bên cửa sổ bao lâu để ngắm nhìn cảnh
tượng ấy, chỉ nhớ vào một thời khắc
nào đó, tôi bỗng chìm vào một giấc ngủ sâu nửa
ngất lịm mà chỉ có ánh sánh chói lòa của mặt
trời mới đưa tôi ra khỏi trạng thái ngủ mê mệt
ấy thôi.
Niềm mong muốn đầu tiên của
tôi khi thức dậy là đi tìm Dennis Barry để
kể lại cho chàng giấc mơ quá đỗi sửng sốt
kia, nhưng dưới ánh mặt trời mọi sự nom khác hẳn,
và tôi bèn tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ. Có thể
tôi đã bị ảo giác, nhưng ảo giác ấy đâu mạnh
đến nỗi khiến tôi không còn kiểm soát nổi
mình nữa và cho rằng tất cả những gì
trông thấy chỉ là giấc mơ. Tôi chỉ giới hạn
ở việc gặng hỏi những người công nhân,
nhưng quả như tôi đã tiên liệu, họ chẳng hề
nhớ điều gì đặc biệt, ngoài tiếng nhạc.
Tôi đã suy nghĩ hồi lâu về những âm thanh lạ
lùng đó, tôi đoán chừng phải chăng lủ dế đã cất
lên bài ca mùa thu của chúng sớm hơn thời điểm tự
nhiên đã khiến cho người ta phải bồi hồi
xao xuyến. Đến trưa tôi gặp Barry đang xem xét một lần
nữa các bản vẽ của mình trước khi khởi
sự công việc. Như vậy, sáng mai các công nhân sẽ bắt
tay vào việc... Lần đầu tiên tôi thấy tim mình
thắt lại vì khiếp sợ, và đã hiểu vì
sao nông nhân chạy trốn khỏi nơi đây. Vì một lý
do mơ hồ nào đó tôi cũng thấy không chịu nổi với
ý nghĩ rằng có ai đó sẽ quấy rầy, phá bĩnh
khu đầm lầy cổ xưa này với biết bao điều
huyền bí của nó được ẩn giấu khỏi ánh
sáng mặt trời. Tôi bỗng hình dung ra những bức
tranh kỳ ảo dưới lớp than bùn dày hàng thế kỷ
này. Không nên bất cẩn mà phô bày cho bàn dân thiên hạ thấy
tất cả những gì đã được giấu kỹ
ở nơi đấy suốt bao thế kỷ như thế.Tôi những
muốn tìm ra một nguyên cớ tiện lợi để
từ giã khu lâu đài và cả chính ngôi làng
này. Thậm chí tôi định nói về việc đó với
Barry, nhưng tôi nhanh chóng kìm được vì bối rối
trước tiếng cười nhạo báng của chàng. Tôi im lặng
quan sát vầng mặt trời đang tỏa những sắc
màu rực rỡ lên những ngọn đồi xa và tỏa
xuống Kilderry thứ ánh sáng chói lọi màu vàng đỏ, một
hiện tượng có vẻ như điềm gở.
Tôi không biết những sự kiện
diễn ra đêm qua là trong mơ hay thực. bất luận thế
nào đi nữa thì một trí tưởng tượng tinh tế
nhất cũng không tài nào có thể sản sinh được điều
gì hơn thế. Chẳng hạn, tôi không đủ sức
nghĩ ra những lời giải thích tỉnh táo và hợp
lý cho cái lẽ là sau đêm ấy mọi người trong
lâu đài và khu làng đã biến
đi đâu mất. Tôi về phòng mình sớm, nhưng
trong lòng nặng trĩu những dự cảm nặng
nề nên không tài nào ngủ được. Sự im lặng báo
điều dữ ngự trị trong ngọn tháp xa này cứ
hành hạ tôi. Mặc dầu trời tối nhưng quang đãng:
những ngày này là lúc trăng hạ huyền và trăng mọc rất
muộn. Tôi nằm và suy nghĩ về Dennis Barry, về những
gì sẽ xảy ra với đầm lầy khi trời
sáng, và cuối cùng những trăn trở ấy đã đẩy
tôi tới trạng thái khiến tôi saÜn sàng vùng dậy, ngồi
vào chiếc ô tô của bạn tôi, chủ nhân tòa lâu đài, lao thẳng tới
Ballylow và thoát khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này.
Nhưng, chưa kịp đi đến quyết định cuối cùng thì
tôi đã ngủ thiếp đi. Thế là trong cơn mơ tôi lại
thấy thành phố nơi thung lũng, ảm đạm và thẩn
thờ vì mối đe dọa diệt vong đang lơ lửng
trên đầu.
Có thể tôi lại bị đánh thức
bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh
dậy thì không phải tiếng nhạc làm bận
trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng
đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ
đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên
bức tường đối diện. Nhưng tôi đã nhìn
thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những
vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh
trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là
ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gôtích. Nó tràn
ngập cả căn phòng bằng một ánh hào quang chói
chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ,
và điều này chẳng có gì
đáng ngạc nhiên vì chỉ có nhân vật trong sách mới
xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong tình
huống như thế. Thay vì nhìn xuống vùng đầm
lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ
đâu đến thì tôi thậm chí không quay lại phía cửa
sổ mà liền vội vã mặc quần áo với
niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi
nơi đây. Tôi nhớ là đã mang theo khẩu
súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng
cho tôi. Tôi đã đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn
được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu
sao trí tò mò vẫn mạnh hơn sự kinh sợ,
cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nhìn
vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người
ra ngoài và đúng phút ấy tiếng
tiêu cất lên đến váng tai, khắp tòa lâu đài và ngôi làng tràn ngập
những thanh âm ấy.
Dòng ánh sáng rực rỡ màu đỏ
sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm
lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn
trên hòn đảo. Song khu hoang phế ấy đã thay đổi
một cách lạ lùng. Tôi thật khó lòng mô tả được
điều gì xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm
thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với
toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề
bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột
bao quanh. Những ánh hồi quang của ngọn lửa
đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột
vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng
và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nhìn ngắm
cảnh tượng ấy thì trên những bức tường
cẩm thạch được chiếu sáng rõ bắt đầu
xuất hiện hình dáng các vũ công. Tất cả
những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật,
ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt.
Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời
mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời
ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập.
Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự
cảm nặng nề, tôi liền băng ngang phòng đến
chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy
ngôi làng và cánh rừng thưa. Chính đó là điều mà tôi đã thấy
trước đây và lý trí của tôi đã chối từ
chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ thì
tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa
đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động
một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện
trong cơn ác mộng mà thôi.
Lúc thì trượt trên mặt đất,
lúc thì trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy
chậm rãi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm
lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế
tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu
trắng, chúng cứ đi và tạo ra những hình thù phức
tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ
nghi lễ cổ xưa. Những cánh tay không chút thịt da của
chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng
tai của những cây sáo vô hình, những cánh tay ấy
mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân
làm thuê mà giờ đây đã xếp thành hàng lần lượt
đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó
ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức
mạnh ma quỷ nào đó. Khi các nữ thần sông suối
đi đến đầm lầy thì những nạn nhân mới
đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo
với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ
xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới
cửa sổ phòng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong
cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp
nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quãng
cánh rừng thưa. Mặc dù có một khoảng cách giữa
tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những
gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở
một trong số những hình người quái đản
và thê thảm nhất tôi đã nhận ra chị đầu
bếp mà những cử động vụng về bình
thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm.
Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng
như trước, và từ phía hòn đảo lại vang lên tiếng
thôi thúc giục giã của những chiếc trống,
và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm
và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy
cổ xưa. Còn những người đi theo sau các nữ thần
ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu
xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước
vô tình. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy
thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước.
Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng
là chị bếp béo, con người đã gợi nên nơi tôi sự
thương cảm. Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước
thì những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do
đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt;
ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh bình của
vầng trăng vừa mọc.
Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu
tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có
phải những điều đó đã xảy ra trên thực tế
hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất
ngờ chìm đắm vào đã cứu tôi khỏi cái số
phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi
đã cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần
Persephone và thần Pluto. Tóm lại tôi đã cầu xin tất
cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học
cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đã
biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi
đã trở thành người chứng kiến cái chết của
cả làng, không còn nghi ngờ gì nữa: trong tòa
lâu đài chỉ còn lại
có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của
chàng đã dẫn đến thảm họa. Khi nghĩ về
chàng thì trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp
đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngã xuống và
tôi ngã lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị
ngất. Bất thình lình tôi cảm thấy một
cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa
mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt
vọng ở tầng dưới của tòa lâu đài. Chẳng bao lâu sau tiếng
kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến
mức bây giờ tôi cũng còn thấy kinh hoàng khi
nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng
đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.
Có lẽ, làn gió lạnh giá và những
tiếng kêu khủng khiếp đã buộc tôi phải đứng
dậy bởi vì, như tôi còn nhớ, tôi chạy hồi
lâu dọc các căn phòng tăm tối và các dãy hành lang
tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta tìm
thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa. Tôi đã đi lảo
đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm
bẩm điều gì trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự
cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đã đẩy
tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh
ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ
không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt
xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu
tôi bất thần đứng gần một đầm lầy
vào đêm trăng nào đó.
Vậy là sau khi rời bỏ tòa
lâu đài khủng khiếp, đang
phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy
những âm thanh gì mới lạ, chẳng có gì đặc
biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, thì cho đến
nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hãm mà
trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt,
sinh động. Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những
con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp
lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng
ánh sáng còn tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ
những con ếch kềnh ấy đang chú ý dõi nhìn
về phía tia sáng ấy. Tôi theo dõi một con ếch
đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nhìn thấy
chính cái điều đã khiến tôi hoàn toàn mê muội.
Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt
không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy
trải dài từ công trình bí ẩn trên hòn đảo
nhỏ tới vầng trăng khuyết. Còn tôi thót tim
khi nhìn thấy trên con đường mòn nhợt nhạt
chết chóc một hình người quằn quại, một
cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những
con quỷ vô hình đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là
tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa
quái đản man dại, đã khiến tôi nhớ một
cách lạ lùng đến con người đã từng là Dennis
Barry.
Các tập khác :
1|2|3|4|5|6|7|8|9|10|11|12|13|14|15|16|17|18|19|20
|